TRÀNG DƯƠNG
(Ðọc Phù Hoa, truyện thơ Văn Cát Tiên - Nxb Văn Học, 2011)
Bìa truyện thơ “Phù Hoa” của Văn Cát Tiên
Thơ có thể là lời đồng vọng toát lên từ sâu thẳm tâm thức, biểu hiện bằng thứ ngôn ngữ đầy quyền năng để giải bày mọi xúc cảm của tâm hồn, ở chừng mực nào đó cũng là tiếng nói lương tri của thời đại. Và trong sự gặp những vần thơ được ươm mầm từ một xã hội đương phát sinh nhiều vấn đề “đáng báo động” về đạo đức, lối sống. Với lẽ đó, Phù Hoa của Văn Cát Tiên đã khơi gợi một không gian hiện tồn trong sự bát nháo của đồng tiền và những thói đời phù phiếm. Nhà thơ đã gửi gắm những tâm sự của mình qua cuốn truyện thơ Phù hoa dày dặn 4.306 câu, chia làm 40 chương. Phù Hoa đi theo lối truyện thơ cổ điển - một thể loại kể chuyện bằng thơ, biểu hiện ý nghĩ bằng ngôn ngữ đa hình ảnh, đầy chất tự sự, phê phán xoay quanh nhiều vấn đề bức xúc của xã hội. Tác phẩm bám theo lối diễn đạt kiểu hình thức cố sự của truyện kể dân gian, điểm xuyến thêm những chi tiết trữ tình làm giàu không gian thơ. Phù Hoa có sự tương đồng về mặt hình thức thể hiện của truyện Kiều (Nguyễn Du), Lục Vân Tiên (Nguyễn Đình Chiểu)… Câu chuyện thể hiện qua những vần điệu của thể thơ lục bát, diễn tả về lối sống, phẩm chất, số phận của nhiều hạng người trong xã hội
Qua hàng ngàn câu thơ, Phù Hoa đã khái quát rằng: “Đời nay chơi chữ dẻo mồm Văn chương đa dụng khôn buồn cổ nhân, có thể nói đó là lời tâm sự nhân tình thế thái của nhà thơ bộc bạch trong 40 chương sách. Mượn Phù Hoa để nói, để chỉ, để thấy bao vấn nạn, bao bộ mặt còn lẩn khuất dưới vô vàn cái vỏ hoa mỹ khó mà “gõ cửa làm phiền”: “Sông sâu tăm cá khôn dò Thời gian diệu vợi sảy đo lòng người”. Và cả những câu hỏi mang tính luân lí, phẩm cách đang là chủ đề nóng hổi hiện nay trong xã hội với giá trị: “Chữ trinh trong cõi đàn bà Biện rằng thanh khiết dăm ba bảy đường”. Bám vào chủ đề ấy, Phù Hoa đã bày ra một cảnh tượng hỗn nham của thế sự, đang chực “đạp đổ” các giá trị truyền thống; những “sợi dây đạo đức” đã bị tháo gỡ bởi những con người bon chen, hám lợi.
Câu chuyện khởi đi từ cuộc sống ở một gia đình trí thức họ Đàm, nơi xuất phát những bi kịch lớn, ngọn nguồn của những tai ương, đổ vỡ. Đàm từng là một quân nhân có công thời kháng chiến, sau trở thành một giáo sư, hiệu trưởng một trường đại học. Khi đã có công danh sự nghiệp vững vàng, được cất nhắc thăng tiến, Đàm đã dùng vị thế của mình để trục lợi “Nắm ngân sách tuyển sĩ hiền Vẫy tay kí toẹt nghìn tiền như chơi”. Sự thoái hóa, biến chất của một lớp người đã khiến tác giả vì thế mà thốt lên: “Nếp nhà rách toạc oai nghiêm/ Sợ thay đô thị đảo điên tình người”.
Giàu quá hóa hư, con gái Đàm Thục Song tỏ ra ăn chơi giữa chốn thị thành: “Áo thun quần sooc khơi khơi Cô kiêu hãnh giữa triệu người bon chen”. Thân gái dạt trôi, bị cào xé đến độ sau này sa đà trở thành món đồ chơi của sư Thích Thiếu Nhơn, gái karaoke, vũ trường: “Mơ màng nhạc vũ trường xoay Giường khuya trai lạ vui vầy tình suông”; rồi trở thành món hàng kinh doanh của bè lũ Phạm Nghi. Số phận éo le, trắc trở của Thục Song khiến nhà thơ phải “mượn đàn” mà rằng: “Lẩy ngâm đoản khúc trần ai Nhân gian ai đó thở dài mà trông”.
Vợ Đàm ngoại tình chỉ vì “Lấy chồng từ trước đến giờ Ái ân nào thỏa những mơ khát tình”, lại cặp bồ với Nguyễn Hoành là con Nguyễn Bân, bạn chí cốt của ông hiệu trưởng họ Đàm. Nhà thơ đã gióng lên một hồi chuông thế sự: “Vài năm đổi mới chưa lâu/ mà nền đạo đức bạc màu gớm ghê”. Những câu đúc kết từ hệ quả của lối sống: “Ở đời đem bán chữ tâm/ Cố mua cho được chữ tham đem về”. “Cầm dao sắc cũng có ngày/ chớ là cầm bút vụng xoay cửa ngoài” để kết luận cho một bi kịch của một gia đình trí thức sau khi họ Đàm bị tố cáo, vợ theo trai, con gái phiêu bạt.
Ấn tượng nhất là tuyến nhân vật phản diện trong Phù Hoa, là tập hợp những con người có vị thế trong xã hội, có công danh địa vị nhưng lại là những kẻ bạc ác, bụng dạ khó lường. Đó là cha con Phạm Hiền, Phạm Nghi, Kiều Xuân, Nguyễn Hoành, Đàm thị, sư Thích Thiếu Nhơn, Đào Ngọc Vinh, gã giang hồ Quách Bắc Giang...
“Ổ tha hóa” đầu tiên phải nói đến nhân vật Phạm Hiền hiện lên với dung dáng của một ông quan tham lam xấu tướng “Bụng to bệ vệ cổ tròn thắt nơ”, tóc tai chải chuốt bóng lộn đến nỗi “Ruồi con uổng mạng trượt chân té nhào”. Trong Phù Hoa, Phạm Hiền là một Cục trưởng hải quan, quyền uy đầy mình: “Lọng che vững chải trên đầu/ Ghế êm bợ đỡ ruồi bâu chật đường”. Thế nhưng nhân vật này lại là hạng quan tham, thu nhập chính là tiền hối lộ do các doanh nghiệp, con buôn muốn qua ải thoát thuế, nhập lậu. Quan tham gặp được gái “hồ ly” trải đời Kiều Xuân, người từng giành giải hoa khôi: “Thân hình bốc lửa mời xơi/ Trang bìa áo tắm mỉm cười thơ ngây”. Sự kết hợp “ngưu tầm ngưu” này là một cái mode trong đời sống thường ngày mà không ít bài báo đã nêu về mối quan hệ “cộng sinh” giữa người đẹp và quan chức. Tấn công vào cái “sào huyệt đen” này, tác giả Phù Hoa tỏ ra rất mạnh dạn, am tường những chi tiết đậm đặc tính “tả chân”. Nhưng Kiều Xuân lại là hạng đẹp người tà nết, trước yêu Phạm Hiền sau lại kết hôn với con trai của Phạm Hiền là Phạm Nghi, thạc sĩ du học Anh quốc. Phạm Nghi sau trở thành một tay kinh doanh “đen” nhiều mánh nhiều khóe: “Kịp theo đòi lối thương trường/ Ăn chơi quen nết chán chường bướm ong”.
Cha làm quan, con doanh nhân tạo nên một bộ sậu thế lực đầy đủ cả quyền lẫn tiền. Phạm Nghi là một nhân vật lườn lách như rắn, khôn ngoan hiểm độc. Y tận dụng mọi thứ để kiếm tiền, trục lợi, buôn đỏ bán đen, kinh doanh đa ngành nhưng toàn là những thứ làm hại xã hội, ngay cả đám tang của chú Bác mình là Thứ trưởng Phạm Bách, Nghi cũng tìm mọi cách để kiếm lời. Ấy thế mà Phạm Nghi thăng quan tiến chức vùn vụt, có tiền thì mua bằng tiến sĩ, túi đầy mồm dẻo nên lại trúng cử đại biểu Hội đồng nhân dân. Trần gian tiêu khiển bao lạc thú nhưng vẫn tòm tem gạ gẫm người yêu của em họ Hải Thụy (con Phạm Bách) là Tố Quyên để tình duyên đôi bên hiểu lầm; lại đan tâm hãm hại Gia Hân, Thái Ngọc Thiều. Phạm Nghi băng hoại đến nỗi nhà thơ mượn cảnh huynh đệ Tào Phi – Tào Thực tương tàn mà than rằng: “Sanh ra cội rễ một nhành/ Đậu sôi bỏng lửa do cành đậu đun”. Phạm Nghi là nhân vật “bẩn” nhất về đạo đức trong Phù Hoa, về thứ bậc có thể sánh với Sở Khanh, Mã Giám Sinh trong Truyện Kiều, Trịnh Hâm, Bùi Kiệm trong Lục Vân Tiên.
Tác giả không ngần ngại tạo dựng nên những nhân vật điển hình của tệ đạo đức giả, tấn công vào những gương mẫu mực khi chính họ lại là biểu trưng của một hình tượng phẩm cách. Sư hổ mang Thích Thiếu Nhơn lộ ra: “Lạ cho chiếc áo cà sa/ Họ Trư khéo mặc cáo già chân tu”, kẻ đã hãm hiếp Đàm Thục Song khi cô bỏ đi bụi đời, dạt đến chùa Long Thiện, nơi đây là hang ổ của bọn háo sắc đội lốt thầy chùa. Những vết nứt của xã hội, lòng người cuốn hút xô bồ trong dòng chảy thác nộ của đồng tiền. Thế nhưng, trong sự hỗn nham đó, Phù Hoa vẫn ngời lên những con người, những tâm hồn sống trong bùn nhưng không bị nhiễm đen. Một gia đình Phạm Bách từ cha cho đến hai con là Gia Hân và Hải Thụy hiện lên là những con người công chính, biết ngọn nguồn đúng sai, hành xử luôn hợp lòng người. Bản thân Phạm Bách làm đến chức Thứ trưởng ngoại giao, suốt đời giữ mình trong sạch: “Bắn vào quá khứ u mê/ Tương lai đại bác dội về thì sao”. Và những chiêm nghiệm của một con người sống qua thời đất nước gian lao: “Chiến tranh khốc liệt thế nào/ Tự do phải đổi máu đào thắm sông”. Phạm Bách cho đến lúc chết vẫn giữ được khí tiết của một người làm quan mà lòng “sáng tựa sao Khuê”.
Thành công nhất của Phù Hoa ngoài việc tạo hiện nên một xã hội đầy rẫy những con người tha hóa, đốn mạt bỗng dưng hé nở “bông hoa tình yêu” Hải Thụy – Tố Quyên: “Sét trời vô ý làm chi Nổ toang tim lạnh mấy bề tương tư”. Một tình yêu sét đánh, bất ngờ với một cô gái rất thôn nữ, “Lòng em cửa đóng then cài Vườn hồng chẳng thiếu anh tài rắp ranh”. Giữa những bộn bề, nhốn nháo của một xã hội đang tất bật kinh tế thị trường, kiếm ra một tình yêu hương đồng gió nội như thế này đã khiến những đổ vỡ của phù hoa như dạt sang bên, nhường chỗ cho đôi uyên ương bước ra từ thi mộng. Văn Cát Tiên đã tạo dựng nên nhân vật Tố Quyên, một cô gái giàu ý chí, bị cuốn vào những tai vạ của đời nhưng vẫn giữ tâm hồn thanh sạch. Tố Quyên là một hình tượng nhân vật đoan trang, hiền thục, một thôn nữ đẹp người tốt nết, xuất hiện trong Phù hoa có lẽ là thuộc dạng hiếm. Ngay cả khi bị ruồng bỏ, lỡ mang bầu với Hải Thụy “dù mang tiếng xấu không cha còn hơn giết trẻ ruột rà dạ mang”. Tố Quyên không phải là một con người dễ bị vẩn đục giữa bùn đen mà thế lực xấu xa rắp tâm hãm đặt. Và hôn phu Hải Thụy cũng là một con người cũng rất đáng để học tập. Hải Thụy vốn tình tính hiền lành lại làm công tác thanh tra, nhiều lần bị mua chuộc, bị sa vào bẫy của tập đoàn Phạm Nghi nhưng rồi Hải Thụy đã đứng lên, từ bỏ mối quan hệ với thế lực bất chính. Anh yêu Tố Quyên bằng cả trái tim, hết lòng chăm lo cho người mình yêu. Nhưng tình yêu của họ lại lắm gian truân, trắc trở. Phạm Nghi xảo quyệt muốn gạ gẫm Tố Quyên đã bày kế chia lìa, khiến Hải Thụy ưu tư: “Nhìn mây bay gấp chạnh lòng/ Non xa khuyết bóng gió đông nặng nề”. Nhân vật này bị cuốn vào những trò lừa mưu mô của “tập đoàn kinh doanh đen” Phạm Nghi, lắm lúc làm những chuyện trái với lương tâm. Nhưng Hải Thụy đã sớm biết sám hối và thoát ra khỏi vòng xoáy “Cố không theo lối gian tà/ Hạnh phúc ngắn ngủi phù hoa lẽ nào”, để rồi đoàn viên với Tố Quyên bên đứa con thơ: “Con ơi con ngủ cho hiền/ Mẹ còn gánh mực tẩy phiền trần gian”.
Một thành công khác trong Phù Hoa đó là việc xây dựng những chi tiết xung quanh mối tình Gia Hân và Thái Ngọc Thiều. Phải nói là Gia Hân (em gái Hải Thụy) và Thái Ngọc Thiều là hai nhân vật có tính chất quyết định đối với cái kết của câu chuyện. Họ như những người hùng thực thi công lý, xóa bỏ những cái xấu xa, dối trá. Tác giả rất hợp lí khi đặt Gia Hân vào vai nhà báo, Thái Ngọc Thiều vào vai nhân viên điều tra, đây là biểu trưng của hai cánh tay đắc lực đại diện cho xã hội lương tri để thực thi công lý. Hai nhân vật này đã vạch mặt buộc tội tập đoàn Phạm Nghi ra ánh sáng. Tình yêu đôi lứa được ví von với phẩm hạnh: “Hãy yêu cho thật đậm đà/ Hãy chắc tay đấm xấu xa cuốn cờ”.
Những nhân vật khác như lão nông Nguyễn Bân (cha Nguyễn Hoành và Tố Quyên) chân chất một đời sống của người nông dân chân lấm tay bùn. Dù quá khứ bị cuốn xô vào những bi kịch nhưng Nguyễn Bân vẫn giữ vững đức tính của một con người hướng thiện: nuôi dạy con cái đàng hoàng, chống chọi với lâm tặc để bảo vệ rừng quê hương. Đàm giáo sư sau khi thất cơ lại về sum vầy nơi thôn Khâu với bạn chí cốt Nguyễn Bân, an vui cuộc sống điền viên. Sau này Đàm Thục Song cũng về đoàn tụ với cha, một kết thúc tốt đẹp cho một cuộc đời sóng gió bụi trần.
Thế giới nhân vật trong Phù Hoa phân tuyến chính – tà rõ ràng; tà thì bị diệt, chính được tôn vinh. Phù hoa kết thúc bằng một cái kết có hậu theo quan niệm nhân quả, mang tính motip điển hình trong thể truyện thơ tự sự dân gian.. Phần Nguyễn Hoành sau khi cặp bồ với Đàm thị lập đường dây buôn bán thuốc tân dược giả, gây nên nhiều hậu quả nghiêm trọng cho xã hội, cuối cùng lại bị rơi vào bẫy Phạm Nghi, bị tố giác, chết một cách oan uổng.. Đàm thị hay tin cũng hóa điên theo. Phạm Hiền ăn chơi trác tán bị mắc bệnh HIV, Kiều Xuân cũng có kết cục tương tự. Tập đoàn Phạm Nghi đều bị đưa ra ánh sáng: Nghi bị kết án tử hình, Quách Bắc Giang lãnh án chung thân, Đàm Thục Song lãnh án mười năm. Âu là một cái hậu cho những kẻ gian thâm, hủ hóa. Lưỡi gươm công lí đã hành xử, cái xấu cái ác phải núp vào bóng tối, nhường chỗ cho ánh sáng của tình thương và lương tri.
Ngoài những chi tiết mang tính chất diễn tiến của câu chuyện, Phù Hoa còn sáng lên những câu lục bát đầy ắp thi ảnh: “Trăng thu bạc phếch trên ngàn/ Thông cao vi vút hổ than thở tình – “ Sương bồng bềnh, phố trưa im / Hoa mách lẻo nắng, thác kìm tiếng mưa” hay “Lô nhô núi xám in hình/ Nép trong lau lách gập ghềnh thác reo” trong những đoạn nói về tâm sự phiêu bạt của Đàm Thục Song (Chương 4).
Đẹp nhất, thơ mộng nhất có lẽ là những chi tiết hình ảnh về thôn Khâu, một vùng quê vốn dĩ yên bình trước khi bị làn sóng kinh tế thị trường hút vào guồng quay: “Nhành khô nảy nụ đầu mùa/ Hạt thóc thức rễ mộng ngô chõi mình” khi miêu tả cản lão nông Nguyễn Bân tất bật với công việc ruộng đồng (Chương 7). Hay hình ảnh: “Nắng thắp tơ lụa lên trời/ Lá đong đưa gió gọi mời ý xuân” nói về cuộc sống yên bình của cô thôn nữ Tố Quyên nơi thôn dã hữu tình (Chương 9). Thôn Khâu, một vùng quê bình yên hương đồng gió nội: “Vi vu gió lộng nâng diều/ Đường làng thôn nữ gánh chiều vàng lưng”, và “Nghé con nghển cổ đo sừng/ đồng xanh gù gụ cu cườm gáy ran”, làm thắm lên mối tình tươi đẹp Hải Thụy, Tố Quyên (Chương 13).
Đến cả những chi tiết đối sánh:“Khuôn trăng vắt vẻo đầu non/ Cao ốc sừng sững vô hồn nhân tâm” (Chương18). Trăng, biểu tượng muôn đời của thơ giờ đây lẩn khuất giữa cao ốc vô hồn, một hình ảnh xô bồ, làm mất đi vẻ đẹp truyền thống của thi ca. Đó là bức tranh đô thị nhốn nháo, ngược xuôi những đòi hỏi vật chất, lợi ích dẫn đến tình trạng “khánh kiệt tâm hồn”. Trong Phù Hoa có thể thấy tâm trạng nuối tiếc trước những đổ vỡ của công nghiệp hóa, đô thị hóa đang làm biến dạng những khung cảnh tươi đẹp, giờ đây chỉ còn thấy trong thơ.
Năm 2011 vừa rồi, được biết Văn Cát Tiên với tấm lòng tri ân, từ thiện đã dùng toàn bộ số tiền quyên góp được từ nhuận bút Phù Hoa để giúp đỡ các nạn nhân chất độc da cam ở hai địa bàn TT- Huế và Quảng Trị với con số lên tới cả trăm triệu đồng.
Thơ và đời, hai phạm trù song hành với nhau, làm được những điều ý nghĩa thực tế như Văn Cát Tiên âu là một phương pháp hữu nghiệm để lột đi cái vỏ phù hoa phiếm diễn trong thực tại của xã hội chúng ta.
T.D
(SH278/4-12)
MINH QUANG Trời tròn lưng bánh tét Đất vuông lòng bánh chưng Dân nghèo thương ngày Tết Gói đất trời rưng rưng...
NGUYỄN THỊ THÁITôi không đi trong mưa gió để mưu sinh, để mà kể chuyện. Ngày ngày tôi ngồi bên chiếc máy may, may bao chiếc áo cho người. Tôi chưa hề may, mà cũng không biết cách may một chiếc Yêng như thế nào.
Nhà thơ Hải Bằng tên thật là Vĩnh Tôn, sinh ngày 3 tháng 2 năm 1930, quê ở thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế. Ông mất ngày 7 tháng 7 năm 1998.
NGUYỄN VĂN HOACuốn sách: "Nhớ Phùng Quán" của Nhà xuất bản Trẻ, do Ngô Minh sưu tầm, tuyển chọn và biên soạn với nhiều tác giả phát hành vào quý IV năm 2003. Cuốn sách có 526 trang khổ 13x19cm. Bìa cứng, in 1000 cuốn. Rất nhiều ảnh đẹp của Nguyễn Đình Toán - nhà nhiếp ảnh chân dung nổi tiếng của Việt nam. Đơn vị liên doanh là Công ty Văn hoá Phương Nam.
ĐÀ LINHĐể có trận quyết chiến chiến lược Điện Biên Phủ, trước đó quân đội Nhân dân Việt Nam đã có những trận đánh để đời mở ra những khả năng to lớn về thế và lực cho chúng ta. Trong đó Trận chiến trên đường (thuộc địa) số 4 - biên giới Cao Bắc Lạng 1950 là một trận chiến như vậy.
HOÀNG VĂN HÂNLướt qua 30 bài thơ của Ngô Đức Tiến trong “Giọng Nghệ”, hãy dừng lại ở những bài đề tài tình bạn. Với đặc điểm nhất quán, bạn của anh luôn gắn liền với những hoài niệm, với những địa chỉ cụ thể, về một khoảng thời gian xác định. Người bạn ấy hiện lên khi anh “nghĩ về trường” “Thăm trường cũ”, hoặc là lúc nhớ quá phải “Gửi bạn Trường Dùng” “ Nhớ bạn Thanh Hoá”. Bạn của anh gắn với tên sông, tên núi: sông Bùng, sông Rộ, Lạt, Truông Dong, Đồng Tháp.
FAN ANHTrên thế gian này tồn tại biết bao nhiêu báu vật, hoặc những huyền thoại về báu vật, thì cũng gần như hiện hữu bấy nhiêu nỗi đau và bi kịch của con người vốn dành cả cuộc đời để kiếm tìm, bảo vệ, chiếm đoạt hay đơn giản hơn, đặt niềm tin vào những báu vật ấy. Nhẫn thạch (Syngué sabour - Pierre de patience) của Atiq Rahimi trước tiên là một báu vật trong đời sống văn học đương đại thế giới, với giải thưởng Goncourt năm 2008, sau đó là một câu chuyện về một huyền thoại báu vật của những người theo thánh Allad.
KIM QUYÊNSinh năm 1953 tại Thừa Thiên (Huế), tốt nghiệp Đại học Sư phạm Huế năm 1976, sau đó về dạy học ở Khánh Hoà (Nha Trang) hơn 10 năm. Từ năm 1988 đến nay, nhà thơ xứ Huế này lại lưu lạc ở thành phố Hồ Chí Minh, tiếp tục làm thơ và viết báo. Chị là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, hiện nay là biên tập viên Tạp chí Văn hoá Nghệ thuật của Sở Thông tin Văn hoá thành phố Hồ Chí Minh.
VÕ QUANG YẾN Tôi yêu tiếng nước tôi Từ khi mới ra đời làm người Phạm Duy
PHẠM NGUYÊN TƯỜNGKhao khát, đinh ninh một vẻ đẹp trường tồn giữa "cuộc sống có nhiều hư ảo", Vú Đá, phải chăng đó chính là điều mà kẻ lãng du trắng tóc Nhất Lâm muốn gửi gắm qua tập thơ mới nhất của mình? Bài thơ nhỏ, nằm nép ở bìa sau, tưởng chỉ đùa chơi nhưng thực sự mang một thông điệp sâu xa: bất kỳ một khoảnh khắc tuyệt cảm nào của đời sống cũng có thể tan biến nếu mỗi người trong chúng ta không kịp nắm bắt và gìn giữ, để rồi "mai sau mang tiếng dại khờ", không biết sống. Cũng chính từ nhận thức đó, Nhất Lâm luôn là một người đi nhiều, viết nhiều và cảm nghiệm liên tục qua từng vùng đất, từng trang viết. Câu chữ của ông, vì thế, bao giờ cũng là những chuyển động nhiệt thành nhất của đời sống và của chính bản thân ông.
MINH ĐỨC TRIỀU TÂM ẢNHTôi nghe rằng,Rạch ròi, đa biện, phân minh, khúc chiết... là ngôn ngữ khôn ngoan của lý trí nhị nguyên.Chan hoà, đa tình, niềm nỗi... là ngôn ngữ ướt át của trái tim mẫn cảm.Cô liêu, thuỷ mặc, bàng bạc mù sương, lấp ló trăng sao... là ngôn ngữ của non xanh tiểu ẩn.Quán trọ, chân cầu, khách trạm, phong trần lịch trải... là ngôn ngữ của lãng tử giang hồ.Điềm đạm, nhân văn, trung chính... là ngôn ngữ của đạo gia, hiền sĩ.
MAI VĂN HOANTập I hồi ký “Âm vang thời chưa xa” của nhà thơ Xuân Hoàng ra mắt bạn đọc vào năm 1995. Đã bao năm trôi qua “Âm vang thời chưa xa” vẫn còn âm vang trong tâm hồn tôi. Với tôi, anh Xuân Hoàng là người bạn vong niên. Tôi là một trong những người được anh trao đổi, trò chuyện, đọc cho nghe những chương anh tâm đắc khi anh đang viết tập hồi ký để đời này.
NGUYỄN KHẮC PHÊ giới thiệuNhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh nhà phê bình Hoài Thanh (1909-2009)Chúng ta từng biết cố đô “Huế Đẹp và Thơ” một thời là nơi hội tụ các văn nhân, trong đó có những tên tuổi kiệt xuất của làng “Thơ Mới” Việt Nam như Xuân Diệu, Huy Cận, Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên…; nhưng nhà phê bình Hoài Thanh lại đến với Huế trong một hoàn cảnh đặc biệt và có thể nói là rất tình cờ.
LÊ TRỌNG SÂM giới thiệuBà sinh ra và lớn lên ở Painpol và Saint-Malo, một đô thị cổ vùng Bretagne, miền đông bắc nước Pháp. Học trung cấp và tốt nghiệp cử nhân văn chương ở thành phố Nice, vùng xanh da trời miền nam nước Pháp. Là hội viên Hội nhà văn Pháp từ năm 1982, nay bà đã trở thành một trong số ít nhà văn Châu Âu đã tiếp thu và thâm nhập sâu sắc vào rất nhiều khía cạnh của văn hoá Việt Nam.
MAI VĂN HOAN giới thiệu Vĩnh Nguyên tên thật là Nguyễn Quang Vinh. Anh sinh năm 1942 (tuổi Nhâm Ngọ) ở Vĩnh Tuy, huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình. Bố anh từng tu nghiệp ở Huế, ông vừa làm thầy trụ trì ở chùa vừa bốc thuốc chữa bệnh cho người nghèo. Thuở thiếu thời anh đã ảnh hưởng cái tính ngay thẳng và trung thực của ông cụ. Anh lại cầm tinh con ngựa nên suốt đời rong ruổi và “thẳng như ruột ngựa”.
LGT: Vài năm lại đây, sau độ lùi thời gian hơn 30 năm, giới nghiên cứu văn học cả nước đang xem xét, nhận thức, và đánh giá lại nền “Văn học miền Nam” (1954 - 1975) dưới chế độ cũ, như một bộ phận khăng khít của văn học Việt Nam nửa sau thế kỷ XX với các mặt hạn chế và thành tựu của nó về nghệ thuật và tính nhân bản. Văn học của một giai đoạn, một thời kỳ nếu có giá trị thẩm mỹ nhân văn nhất định sẽ tồn tại lâu hơn bối cảnh xã hội và thời đại mà nó phản ánh, gắn bó, sản sinh. Trên tinh thần đó, chúng tôi trân trọng giới thiệu bài viết vừa có tính chất hồi ức, vừa có tính chất nghiên cứu, một dạng của thể loại bút ký, hoặc tản văn về văn học của tác giả Nguyễn Đức Tùng, được gửi về từ Canada. Bài viết dưới đây đậm chất chủ quan trong cảm nghiệm văn chương; nó phô bày cảm nghĩ, trải nghiệm, hồi ức của người viết, nhưng chính những điều đó làm nên sự thu hút của các trang viết và cả một quá khứ văn học như sống động dưới sự thể hiện của chính người trong cuộc. Những nhận định, liên hệ, so sánh, đánh giá trong bài viết này phản ánh lăng kính rất riêng của tác giả, dưới một góc nhìn tinh tế, cởi mở, mang tính đối thoại của anh. Đăng tải bài viết này chúng tôi mong muốn góp phần đa dạng hóa, đa chiều hóa các cách tiếp cận về văn học miền Nam. Rất mong nhận được các ý kiến phản hồi của bạn đọc. TCSH
MAI VĂN HOAN giới thiệuNăm 55 tuổi, Hồng Nhu từng nhiều đêm trăn trở, băn khoăn lựa chọn việc trở về quê hay ở lại thành phố Vinh - nơi anh gắn bó trọn hai mươi lăm năm với bao kỷ niệm vui buồn. Và cuối cùng anh đã quyết tâm trở về dù đã lường hết mọi khó khăn đang chờ phía trước. Nếu không có cái quyết định táo bạo đó, anh vẫn là nhà văn của những thiên truyện ngắn Thuyền đi trong mưa ngâu, Gió thổi chéo mặt hồ... từng được nhiều người mến mộ nhưng có lẽ sẽ không có một nhà văn đầm phá, một nhà thơ “ngẫu hứng” như bây giờ.
LÊ HỒNG SÂMTìm trong nỗi nhớ là câu chuyện của một thiếu phụ ba mươi tám tuổi, nhìn lại hai mươi năm đời mình, bắt đầu từ một ngày hè những năm tám mươi thế kỷ trước, rời sân bay Nội Bài để sang Matxcơva du học, cho đến một chiều đông đầu thế kỷ này, cũng tại sân bay ấy, sau mấy tuần về thăm quê hương, cô cùng các con trở lại Pháp, nơi gia đình nhỏ của mình định cư.
NGUYỄN KHẮC PHÊ (Đọc “Cạn chén tình” - Tuyển tập truyện ngắn Mường Mán, NXB Trẻ, 2003)Với gần 40 năm cầm bút, với hơn hai chục tác phẩm văn xuôi, thơ và kịch bản phim, nhà văn Mường Mán là một tên tuổi đã quen thuộc với bạn đọc, nhất là bạn đọc trẻ. Có lẽ vì ấn tượng của một loạt truyện dài mà ngay từ tên sách (Lá tương tư, Một chút mưa thơm, Bâng khuâng như bướm, Tuần trăng mê hoặc, Khóc nữa đi sớm mai v...v...) khiến nhiều người gọi ông là nhà văn của tuổi học trò, trên trang sách của ông chỉ là những “Mùa thu tóc rối, Chiều vàng hoa cúc...”.
NGUYỄN VĂN HOATranh luận Văn Nghệ thế kỷ 20, do Nhà xuất bản lao động ấn hành. Nó có 2 tập: tập 1 có 1045 trang và tập 2 có 1195 trang, tổng cộng 2 tập có 2240 trang khổ 14,4 x 20,5cm. bìa cứng, bìa trang trí bằng tên các tờ báo, tạp chí có tư liệu tuyển trong bộ sách này.