Chuyện trò với nhà thơ Xuân Hoàng: tâm sự một đời cầm bút

08:44 22/07/2011
L.T.S: Nhà thơ Xuân Hoàng sinh năm 1925 tại Đồng Hới, Bình Trị Thiên. Hội viên Hội nhà văn Việt Nam. Nguyên là quyền Chủ tịch Hội Văn nghệ Bình Trị Thiên, thuở nhỏ ông học ở Huế rồi dạy học ở Đồng Hới một thời gian trước khi thoát ly tham gia cách mạng.

Nhà thơ Xuân Hoàng - Ảnh: TL

[if gte mso 9]> Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 <![endif][if gte mso 9]> <![endif][if !mso]> <![endif][if gte mso 10]> <![endif]

Ông là một trong những nhà thơ đầu tiên ở đây gia nhập Đoàn Thanh niên Cứu Quốc và tham gia cướp chính quyền trong Cách mạng tháng Tám. Ông đã từng được nhiều giải thưởng về thơ của các báo, tạp chí văn nghệ trong các cuộc thi thơ toàn quốc. Tác phẩm chính đã xuất bản:

- Tiếng hát quê hương (tập thơ) 1959
- Du kích sông Loan (trường ca) 1963
- Miền Trung (tập thơ) 1967
- Hương đất biển (tập thơ) 1971
- Biển và bờ (tập thơ) 1975
- Dải đất vùng trời (tuyển thơ) 1976
- Về một mùa gió thổi (tập thơ) 1983
- Từ tiếng võng làng sen (trường ca) 1984
- Quãng cách lặng im (tập thơ) 1984

Bài phỏng vấn dưới đây được thực hiện thay lời chúc mừng của Sông Hương nhân dịp nhà thơ tròn 60 tuổi.




Tôi biết anh có thể nói là gần mười năm. Nhưng vả chăng, biết là một chuyện, còn hiểu, hiểu thật sự, hiểu sâu sắc về một con người, một nhà thơ là một chuyện khác. Huống chi con đường sáng tác của anh đã trải qua cũng khá dài, hơn 40 năm, liên tục, không ngừng, không nghỉ, mỗi chặng đường đều có những thành tựu nhất định. Thời chống Pháp, thời chống Mỹ và trong mười năm lại đây, mỗi thời kỳ thơ của anh đều có đâm bông kết trái, khi ít khi nhiều, khi là những nụ đầu còn tươi mát ngây thơ, hồn nhiên, khi nở rộ rực rỡ ngát hương khi sâu lắng tỏa hương thầm chín tới qua kinh nghiệm của thời gian, tuổi tác tuổi nghề và khát vọng vươn tới gạn lọc. Mà tôi, tôi chỉ hiểu được một vài mảnh rất nhỏ nhoi trong đó. Anh có cái cường tráng, cái hăng, cái bốc của tâm hồn thơ nên viết nhanh, viết khỏe, viết nhiều. Chuyện vơi nguồn cảm hứng, khô cằn sáng tác, dừng bút, nghỉ bút, treo bút, hình như không được đặt ra với anh. Cảm hứng của anh như vô tận, lai láng không bờ không bến. Nhưng thơ anh nói chung là không đều tay, bên cạnh một số bài hay, bài khá, bài được, còn một số khác ở cái dạng: không dở, không kém, mà cũng không hay, có nghĩa là “được được”, “tàm tạm”, “thường thường bậc trung”, mà số này cũng không phải ít, chẳng may ai đọc mãi nhằm loại này trong thơ anh thì dễ hiểu sai lệch, dễ có cái ấn tượng chẳng tốt đối với thơ anh nói chung.

Tiếp xúc với anh, người ta thấy mến, thương, có cảm tình, dễ gần gũi hơn là cảm giác nể, phục, sợ, chẳng biết ấn tượng đó có chủ quan không, nhưng quả đúng là như thế. Tác phong của anh là sự trộn lẫn giữa xoàng xoàng, giản dị và sự nguyên tắc, chững chạc. Có một anh chàng nhà giáo, một người làm công tác tuyên truyền trong một tâm hồn lãng mạn, nhạy cảm. Khi thì con người này, khi thì con người khác thắng thế trong thơ anh. Trong đối xử anh là một con người hồn hậu và có thể nói là vô tâm. Không bao giờ anh để bụng thù hằn ai hoặc giận ai quá lâu. Với chiều cao, khoảng một thước sáu lăm, vóc hình anh cân đối, nhờ cái bề ngang đầy đặn vừa phải so với chiều cao. Sáu mươi tuổi, nhưng trông anh có vẻ trẻ hơn tuổi, nhờ anh giữ điều độ, mực thước trong ăn uống, nghỉ ngơi và làm việc. Trưa nào cũng phải ngủ một giấc, tối ngủ sớm, tập thể dục thường xuyên, không thuốc lá, rượu khi vui mới uống và uống ít nhưng cũng hết được một cuộc, chỉ có cái khoản trà và cà phê là thường xuyên. Bản chất anh lạc quan, yêu đời, vô lo, hay đãng trí trong một số việc thường nhật, có khi được anh em văn nghệ trêu chọc như một giai thoại, hay cười khi gặp những điều thích thú, đặc biệt là những kỷ niệm vui về văn nghệ hay khi đọc sáng tác của mình, và đã cười thì rất to, cười ha hả như để cái thích của mình bộc lộ hết, tràn đầy ra ngoài.

Lần nào anh cũng tiếp tôi với thái độ niềm nở, cởi mở và có thể nói là thân tình. Ánh mắt anh, và toàn bộ con người anh toát lên một dáng vẻ mong được cảm thông, được hiểu biết và được đánh giá đúng về mình. Tôi thì tôi trân trọng, quý mến anh và cũng rất mong được hiểu biết anh nhiều hơn, đầy đủ hơn, sâu sắc hơn và cũng có cái háo hức của kẻ thám hiểm mong dò tìm vũ trụ thơ có những phần còn là những dải đất xa lạ mà mình chưa biết tới.

PV: Thơ anh rất nhiều tập, vậy xin anh cho biết những tập thơ nào được anh thích nhất?

XUÂN HOÀNG: Trước hết có thể đọc “Dải đất vùng trời”, đây là tập thơ tuyển ba mươi năm làm thơ của tôi nó khá toàn diện, đọc nó có thể hiểu được cuộc đời thơ ca của tôi một phần lớn. Sau nữa, các bạn có thể đọc hai tập thơ “Biển và bờ” (1976) và “Quãng cách lặng im” (1984), đó là hai tập thơ mà tôi thích nhất, tập đầu có xu hướng sử thi, tráng ca, anh hùng ca, tập sau là xu hướng trữ tình nội tâm, giọng tâm sự. Về trường ca, tập “Từ tiếng võng làng Sen” là tập tiêu biểu của tôi.

PV: Anh vừa nói xu hướng sử thi và xu hướng trữ tình trong thơ anh, vậy thơ anh có quy tụ theo hai hướng ấy không? Nếu có, những tác giả thơ mà anh chịu ảnh hưởng là những người nào?

XUÂN HOÀNG: Đúng, thơ tôi có hai hướng quy tụ chính nói trên. Thuở đi học, tôi thường chịu ảnh hưởng của Vich-to Huy-gô. Thơ ông vừa có cả hai hướng trên và hướng nào cũng có sự thành tựu. Còn ở Việt Nam, thơ trữ tình của Huy Cận, thơ sử thi của Huy Thông là những ví dụ tiêu biểu vạch hướng cho sự chọn lựa của tôi. Loại sử thi (épique) chủ yếu là thơ hát ca về cái hùng tráng của lịch sử và những con người anh hùng, cá nhân hay tập thể làm nên lịch sử. Mấy mươi năm qua, lịch sử đã xâm nhập thẩm thấu, quy định toàn bộ số phận dân tộc ta và cũng là số phận các cá nhân, không ai đi ra ngoài được quỹ đạo đó. Và lịch sử đó là lịch sử của một dân tộc anh hùng đã anh dũng chiến đấu với kẻ thù có sức mạnh vật chất gấp trăm lần mình mà đã chiến thắng. Thơ không thể không ngợi ca cái đó. Vả lại sứ mệnh của thơ ca và nhà thơ trong hoàn cảnh của một đất nước đang trải qua hai cuộc kháng chiến ác liệt, gian khó như vậy, không thể đứng ngoài cuộc, nhà thơ là tham dự, là chiến sĩ là người đứng đầu sóng ngọn gió, mô tả, hát ca về cuộc chiến đấu kiên cường; anh dũng của nhân dân mình, cổ vũ khích lệ nhiệt tình, đốt cháy ngọn lửa thiêng là lòng yêu nước nơi mỗi công dân. Và nhà thơ trong hoàn cảnh đó phải là một công dân, mà vũ khí cầm chặt trong tay là ngòi bút, tâm hồn, trí tuệ, lòng căm thù và tình yêu và hẳn là niềm tin vững chắc nữa. Nhà thơ đánh địch bằng vũ khí tinh thần. Nhưng nhà thơ còn là một con người - hiểu theo nghĩa con người nhân loại - nhà thơ phải cố gắng và nỗ lực trở nên nhân loại nhất và không cái gì thuộc về con người mà có thể xa lạ đối với nhà thơ”. “Cái tôi” phải có của nhà thơ và “cái ta” của dân tộc, của nhân loại phải cố gắng hòa nhập vào làm một, đó là cái bản lĩnh sống của người làm thơ và bản lĩnh của sự khái quát của anh ta và đó là cái gốc rễ của thơ trữ tình. Thơ trữ chính vốn xuất phát từ chủ thể cảm xúc, cái tôi riêng của nhà thơ trong các mối quan hệ với thế giới bên ngoài: thiên nhiên, xã hội lớn (đất nước, dân tộc, nhân loại), xã hội nhỏ (gia đình, tình yêu, bạn bè, thân thuộc) và đôi khi với cả chính mình, giữa những mâu thuẫn trong lòng không thể không biểu lộ, không thể không giải quyết sự xung đột một cách nào đó trong cảm xúc thơ để tiến tới sự hài hòa, bình ổn trong nội tâm. Thơ trữ tình là tiếng nói con tim, là lời biểu lộ tâm sự, là sự bộc bạch tâm hồn khi có tác động của thế giới bên ngoài hoặc là sự nhìn lại cái thế giới bên trong khi khối lòng có điều ngổn ngang muốn được cảm thông trong sự bày tỏ. Thơ trữ tình của tôi bao giờ cũng mong đạt tới sự hòa nhập hữu cơ giữa “trữ tình cá thể” và “trữ tình công dân”. Ngay cả trong chiến tranh tôi có tìm được cái vẻ đẹp bình thường của cuộc sống để tạo cho được sự quân bình, trong cái dữ dằn, khốc liệt của chiến tranh mà trong đó cảm xúc với thiên nhiên chiếm vị trí chủ đạo: một đêm trăng Trường Sơn bình yên và thanh thản, một vầng trăng ảo mộng đẹp như xứ sở của huyền thoại mà con đường uốn lượn theo những dốc đèo cheo leo, những thác sâu, vực thẳm, khuất, ẩn hiện vẻ đẹp của thiên nhiên đem lại sự bình ổn cho tâm hồn thơ và dĩ nhiên là cả cho độc giả, nó đem lại những giây phút nghỉ ngơi hiếm hoi để tái tạo lại sức mạnh mà tiếp tục chiến đấu giữa cuộc chiến tranh đang gào thét với những âm thanh cuồng nộ.

Tuy nhiên, theo tôi có lúc hai loại này - sử thi và trữ tình có sự giao tiếp và sự giao tiếp càng lớn và càng nhuần nhuyễn một cách vô hình bao nhiêu thì sự thành công của một bài thơ càng dễ đạt tới bấy nhiêu, đặc biệt là thơ về đề tài chiến tranh: Bởi thơ về chiến tranh của ta là thơ của chủ nghĩa anh hùng cách mạng, nó thiên về ngợi ca, nhưng nó phải bộc lộ qua cái riêng của chủ thể trữ tình của người làm thơ, có thể nó mới không chung chung, sơ lược, hời hợt. Thơ chiến tranh của tôi đi theo hướng đó và phần lớn các tập thơ trước 76. Nhưng nói nó có được, có khá chưa, thì cái đó vẫn còn tùy độ chính xác của cảm xúc, của tứ thơ, của nghệ thuật âm thanh, hình ảnh, chữ nghĩa… Phải thú thật rằng thơ trữ tình đích thật và sâu xa của tôi trước năm 75 còn bị giới hạn do hoàn cảnh, tâm lý của thời đại, mà chính tôi và nhiều người làm thơ khác bị ràng buộc, trong đó, đôi khi còn cái cảm giác “sợ trật” làm thơ có phần nào thiếu bề sâu. Chính những tập thơ sau 75 của tôi, nhất là tập “Quãng cách lặng im” theo tôi, đó là một tập thơ trữ tình thật sự, cũng là do hoàn cảnh xã hội khác, thuận lợi hơn, quan điểm chỉ đạo văn nghệ rộng mở hơn, quần chúng cũng có nhu cầu khác, tinh thần khác trước và có thể nói tôi đã có phần chính trong kinh nghiệm bên trong mà cũng có thể là tâm hồn trữ tình của tôi được giải phóng do đó mà tập thơ này được dư luận chú ý và tác phẩm này là niềm vui của tôi, nó là bước tìm đường mới, cái mới lớn trong đời thơ tôi, và cũng từ nó tôi rút nhiều ưu khuyết điểm, sở trường, sở đoản trong nghề thơ.

PV: Xin anh cho biết hai bài thơ mà anh đắc ý nhất?

XUÂN HOÀNG: Đó là hai bài tiêu biểu trong hai tập thơ mà tôi yêu thích, bài Phu-la-nhích trong tập “Biển và bờ” có âm hưởng sử thi, có cái giọng điệu hùng tráng. Còn bài thứ hai là bài “về với biển” trong tập “Quãng cách lặng im” đó là giọng trữ tình sâu lắng, mượn hình ảnh của biển để nói những khát vọng của tâm hồn của đời thơ ký thác tâm sự với đời, với những người trẻ và bài đó kết tinh cả cuộc đời bên trong của tôi. (Rồi anh đọc cho tôi nghe hai bài đó, tôi nhận thấy đúng là hai bài thơ loại hay)

PV: Anh sở trường thể thơ nào?

XUÂN HOÀNG: Một anh bạn thân có ý kiến cho rằng tôi sở trường về loại thể thơ 5 chữ, 7 chữ, và lục bát. Tôi thấy ý kiến đó cũng có phần đúng, nhưng tôi nghĩ rằng mỗi thể thơ như một khí cụ âm nhạc thường phù hợp với loại nhạc riêng, và mỗi loại có một cái hay riêng, vĩ cầm, dương cầm, ghi-ta đều có cái âm sắc độc đáo của nó. Mỗi thể thơ cũng vậy, nó phù hợp với loại cảm xúc, một loại tâm trạng, như hai bài thơ tâm đắc mà tôi mới nói trên đều viết theo thể tự do. Và tôi nghĩ đã đi hẳn với nghề thơ nên cố gắng thạo mọi thể thơ, như thể thơ sẽ đa dạng hơn về mặt hình thức và nghệ thuật. Đôi khi một cảm hứng bất chợt nào đó hiện lên nó đã sẵn có cái áo khoác thể thơ này hay thể thơ kia rồi.

PV: Anh có lần nào suy ngẫm lại sở trường và sở đoản của mình chưa? Và cả việc lắng nghe ý kiến dư luận nữa?

XUÂN HOÀNG: (Nét mặt anh đăm chiêu và có vẻ hơi ưu tư): Có người nói một số bài thơ tôi trước kia có vẻ tản mạn, loãng. Có người cho rằng một số bài khác có chữ nghĩa sáo, đôi người khắt khe hơn còn cho rằng có một số bài hời hợt. Tôi cho rằng tất cả cái đó đều có phần đúng. Đó là những người đọc gặp loại thơ trung bình hoặc trung bình kém của tôi. Âu đó là sở đoản đôi khi không tránh khỏi một người làm thơ nhiều và khá mạnh như tôi. Nay qua kinh nghiệm của mấy tập thơ gần đây, tôi đã “chín” hơn và bài nào tôi mới viết khoảng thời gian lại đây cũng “cô đọng” hơn, tập trung hơn, và có chiều sâu hơn. Và sự trăn trở viết cho hay hơn, là ước vọng của mỗi người làm thơ, nhất là đối với tôi, mỗi nhà thơ nếu muốn tồn tại đều phải bắt đầu lại, tuy nhiên sự bắt đầu này hẳn khác chặng đầu tiên, nó là sự bắt đầu của một biện chứng, một tổng hợp mới do bản thân, sự phát triển của cuộc sống và đời sống thơ ca quy định, đó là ý nghĩa của mọi tìm tòi, đổi mới mà tôi đang cố gắng vươn tới.

PV: Và đó cũng là cách trả lời của anh cho những cuộc thảo luận về thơ, hướng đi, chất lượng của thơ đang sôi nổi hiện nay?

XUÂN HOÀNG: Vâng, có lẽ thế một phần. Người ta nói thơ cần cách tân cả nội dung lẫn hình thức cho phù hợp với nhu cầu của giai đoạn mới, nhất là nhu cầu của độc giả. Có xu hướng đòi nội dung phải mạnh mẽ hơn như một số vấn đề mà các tác phẩm văn xuôi hiện nay đang đề cập, có xu hướng thì đã đổi mới hình thức như kiểu thơ trí tuệ, thơ văn xuôi… Riêng tôi cho rằng bản lĩnh của mỗi nhà thơ là tìm cách biểu lộ phù hợp nhất với cái tạng của mình và cách nhìn nhận của mình đối với những biến đổi của cuộc sống. Tôi cũng đang thử nghiệm cả thơ trí tuệ, lẫn thơ văn xuôi, nhưng tôi cho rằng thơ gì đi nữa “cái chất thơ” của tâm hồn người viết và của bài thơ là điều chủ yếu. Riêng tôi, tôi khẳng định cái xu hướng thơ “trữ tình cá thể” gắn chặt với “trữ tình công dân”. Nhà lý luận nói rằng ngôn ngữ khoa học, nhà thơ phải nói bằng ngôn ngữ thơ và cái chính là bằng tác phẩm. Tập thơ “Quãng cách lặng im” của tôi là một sự đổi mới của phong cách thơ và nó đã có một tiếng vang, một thành công nhất định nào đó.

PV: Anh có đọc thơ của những người viết trẻ không? Cảm tưởng của anh ra sao?

XUÂN HOÀNG: (Anh ngần ngừ một lúc, đắn đo, rồi trả lời). Mỗi thế hệ đều có quyền có tiếng nói của mình, có cách nhìn nhận và đánh giá cuộc sống của mình, đó là điều cần phải tôn trọng. Anh em làm thơ trẻ, có nhiều tìm tòi, nhiều suy nghĩ cả về mặt hình thức, lẫn nội dung. Tôi đang cố đọc và cố tiếp xúc thật nhiều và đang xem xét. Có cái tôi chịu được, có cái không hợp tạng, thế thôi.

PV: Dự định sáng tác sắp tới của anh ra sao? Nếu có thể xin anh cho biết anh có định ra mắt tập thơ nào mới?

XUÂN HOÀNG: Tôi đang định viết một trường ca dài gồm nhiều chương về vùng đất Bình Trị Thiên này trong một thời gian mấy trăm năm, cả huyền thoại lẫn lịch sử và đã lên đề cương và đã bắt đầu viết xong chương thứ nhất. Còn cho ra mắt tập mới ư? Tập thơ “Quãng cách lặng im” của tôi vừa rồi người ta cho biết là bán rất chạy và đã hết sạch, nhà xuất bản rất tiếc là đã in ít và do đó tôi hy vọng họ sẽ dễ dàng với tập thơ mới của tôi. Tôi đang tập hợp khoảng 70, 80 bài thơ viết về Huế và trên một trăm mấy chục bài viết về đề tài Đồng Hới, hai quê hương của tôi và sẽ gởi cho nhà xuất bản tập này. Tôi còn khoảng hơn 200 bài xon-nê mà tôi định lọc lại để chọn thành một tập khác. Hiện nay tôi cũng đang viết một vài truyện ngắn theo lối tôi cho phù hợp với tôi, truyện ngắn pha với tùy bút, truyện có chất thơ.

PV: Xin cảm ơn anh và chúc anh có nhiều thành tựu mới trong sự nghiệp văn chương.

Anh xiết chặt tay tôi. Chia tay với anh, tôi hiểu thêm nhiều về một trong những gương mặt tiêu biểu của nền thơ ca Bình Trị Thiên, một con người có năng lực sáng tạo rất dồi dào, sung sức và đang đi tới những thành tựu mới và một con người có tính tình hồn hậu, đầy nhân tính và đang mong ước được đổi mới như dòng đời, như thơ, vốn luôn trẻ mãi mà già dặn bên trong.

Huế, tháng 9-10/1983
BỬU NAM thực hiện
(16/12-85)






Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • MINH QUANG                Trời tròn lưng bánh tét                Đất vuông lòng bánh chưng                Dân nghèo thương ngày Tết                Gói đất trời rưng rưng...

  • NGUYỄN THỊ THÁITôi không đi trong mưa gió để mưu sinh, để mà kể chuyện. Ngày ngày tôi ngồi bên chiếc máy may, may bao chiếc áo cho người. Tôi chưa hề may, mà cũng không biết cách may một chiếc Yêng như thế nào.

  • Nhà thơ Hải Bằng tên thật là Vĩnh Tôn, sinh ngày 3 tháng 2 năm 1930, quê ở thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế. Ông mất ngày 7 tháng 7 năm 1998.

  • NGUYỄN VĂN HOACuốn sách: "Nhớ Phùng Quán" của Nhà xuất bản Trẻ, do Ngô Minh sưu tầm, tuyển chọn và biên soạn với nhiều tác giả phát hành vào quý IV năm 2003. Cuốn sách có 526 trang khổ 13x19cm. Bìa cứng, in 1000 cuốn. Rất nhiều ảnh đẹp của Nguyễn Đình Toán - nhà nhiếp ảnh chân dung nổi tiếng của Việt nam. Đơn vị liên doanh là Công ty Văn hoá Phương Nam.

  • ĐÀ LINHĐể có trận quyết chiến chiến lược Điện Biên Phủ, trước đó quân đội Nhân dân Việt Nam đã có những trận đánh để đời mở ra những khả năng to lớn về thế và lực cho chúng ta. Trong đó Trận chiến trên đường (thuộc địa) số 4 - biên giới Cao Bắc Lạng 1950 là một trận chiến như vậy.

  • HOÀNG VĂN HÂNLướt qua 30 bài thơ của Ngô Đức Tiến trong “Giọng Nghệ”, hãy dừng lại ở những bài đề tài tình bạn. Với đặc điểm nhất quán, bạn của anh luôn gắn liền với những hoài niệm, với những địa chỉ cụ thể, về một khoảng thời gian xác định. Người bạn ấy hiện lên khi anh “nghĩ về trường” “Thăm trường cũ”, hoặc là lúc nhớ quá phải “Gửi bạn Trường Dùng” “ Nhớ bạn Thanh Hoá”. Bạn của anh gắn với tên sông, tên núi: sông Bùng, sông Rộ, Lạt, Truông Dong, Đồng Tháp.

  • FAN ANHTrên thế gian này tồn tại biết bao nhiêu báu vật, hoặc những huyền thoại về báu vật, thì cũng gần như hiện hữu bấy nhiêu nỗi đau và bi kịch của con người vốn dành cả cuộc đời để kiếm tìm, bảo vệ, chiếm đoạt hay đơn giản hơn, đặt niềm tin vào những báu vật ấy. Nhẫn thạch (Syngué sabour - Pierre de patience) của Atiq Rahimi trước tiên là một báu vật trong đời sống văn học đương đại thế giới, với giải thưởng Goncourt năm 2008, sau đó là một câu chuyện về một huyền thoại báu vật của những người theo thánh Allad.

  • KIM QUYÊNSinh năm 1953 tại Thừa Thiên (Huế), tốt nghiệp Đại học Sư phạm Huế năm 1976, sau đó về dạy học ở Khánh Hoà (Nha Trang) hơn 10 năm. Từ năm 1988 đến nay, nhà thơ xứ Huế này lại lưu lạc ở thành phố Hồ Chí Minh, tiếp tục làm thơ và viết báo. Chị là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, hiện nay là biên tập viên Tạp chí Văn hoá Nghệ thuật của Sở Thông tin Văn hoá thành phố Hồ Chí Minh.

  • VÕ QUANG YẾN Tôi yêu tiếng nước tôi                Từ khi mới ra đời làm người                                                Phạm Duy

  • PHẠM NGUYÊN TƯỜNGKhao khát, đinh ninh một vẻ đẹp trường tồn giữa "cuộc sống có nhiều hư ảo", Vú Đá, phải chăng đó chính là điều mà kẻ lãng du trắng tóc Nhất Lâm muốn gửi gắm qua tập thơ mới nhất của mình? Bài thơ nhỏ, nằm nép ở bìa sau, tưởng chỉ đùa chơi nhưng thực sự mang một thông điệp sâu xa: bất kỳ một khoảnh khắc tuyệt cảm nào của đời sống cũng có thể tan biến nếu mỗi người trong chúng ta không kịp nắm bắt và gìn giữ, để rồi "mai sau mang tiếng dại khờ", không biết sống. Cũng chính từ nhận thức đó, Nhất Lâm luôn là một người đi nhiều, viết nhiều và cảm nghiệm liên tục qua từng vùng đất, từng trang viết. Câu chữ của ông, vì thế, bao giờ cũng là những chuyển động nhiệt thành nhất của đời sống và của chính bản thân ông.

  • MINH ĐỨC TRIỀU TÂM ẢNHTôi nghe rằng,Rạch ròi, đa biện, phân minh, khúc chiết... là ngôn ngữ khôn ngoan của lý trí nhị nguyên.Chan hoà, đa tình, niềm nỗi... là ngôn ngữ ướt át của trái tim mẫn cảm.Cô liêu, thuỷ mặc, bàng bạc mù sương, lấp ló trăng sao... là ngôn ngữ của non xanh tiểu ẩn.Quán trọ, chân cầu, khách trạm, phong trần lịch trải... là ngôn ngữ của lãng tử giang hồ.Điềm đạm, nhân văn, trung chính... là ngôn ngữ của đạo gia, hiền sĩ.

  • MAI VĂN HOANTập I hồi ký “Âm vang thời chưa xa” của nhà thơ Xuân Hoàng ra mắt bạn đọc vào năm 1995. Đã bao năm trôi qua “Âm vang thời chưa xa” vẫn còn âm vang trong tâm hồn tôi. Với tôi, anh Xuân Hoàng là người bạn vong niên. Tôi là một trong những người được anh trao đổi, trò chuyện, đọc cho nghe những chương anh tâm đắc khi anh đang viết tập hồi ký để đời này.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ giới thiệuNhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh nhà phê bình Hoài Thanh (1909-2009)Chúng ta từng biết cố đô “Huế Đẹp và Thơ” một thời là nơi hội tụ các văn nhân, trong đó có những tên tuổi kiệt xuất của làng “Thơ Mới” Việt Nam như Xuân Diệu, Huy Cận, Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên…; nhưng nhà phê bình Hoài Thanh lại đến với Huế trong một hoàn cảnh đặc biệt và có thể nói là rất tình cờ.

  • LÊ TRỌNG SÂM giới thiệuBà sinh ra và lớn lên ở Painpol và Saint-Malo, một đô thị cổ vùng Bretagne, miền đông bắc nước Pháp. Học trung cấp và tốt nghiệp cử nhân văn chương ở thành phố Nice, vùng xanh da trời miền nam nước Pháp. Là hội viên Hội nhà văn Pháp từ năm 1982, nay bà đã trở thành một trong số ít nhà văn Châu Âu đã tiếp thu và thâm nhập sâu sắc vào rất nhiều khía cạnh của văn hoá Việt Nam.

  • MAI VĂN HOAN giới thiệu Vĩnh Nguyên tên thật là Nguyễn Quang Vinh. Anh sinh năm 1942 (tuổi Nhâm Ngọ) ở Vĩnh Tuy, huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình. Bố anh từng tu nghiệp ở Huế, ông vừa làm thầy trụ trì ở chùa vừa bốc thuốc chữa bệnh cho người nghèo. Thuở thiếu thời anh đã ảnh hưởng cái tính ngay thẳng và trung thực của ông cụ. Anh lại cầm tinh con ngựa nên suốt đời rong ruổi và “thẳng như ruột ngựa”.

  • LGT: Vài năm lại đây, sau độ lùi thời gian hơn 30 năm, giới nghiên cứu văn học cả nước đang xem xét, nhận thức, và đánh giá lại nền “Văn học miền Nam” (1954 - 1975) dưới chế độ cũ, như một bộ phận khăng khít của văn học Việt Nam nửa sau thế kỷ XX với các mặt hạn chế và thành tựu của nó về nghệ thuật và tính nhân bản. Văn học của một giai đoạn, một thời kỳ nếu có giá trị thẩm mỹ nhân văn nhất định sẽ tồn tại lâu hơn bối cảnh xã hội và thời đại mà nó phản ánh, gắn bó, sản sinh. Trên tinh thần đó, chúng tôi trân trọng giới thiệu bài viết vừa có tính chất hồi ức, vừa có tính chất nghiên cứu, một dạng của thể loại bút ký, hoặc tản văn về văn học của tác giả Nguyễn Đức Tùng, được gửi về từ Canada. Bài viết  dưới đây đậm chất chủ quan trong cảm nghiệm văn chương; nó phô bày cảm nghĩ, trải nghiệm, hồi ức của người viết, nhưng chính những điều đó làm nên sự thu hút của các trang viết và cả một quá khứ văn học như sống động dưới sự thể hiện của chính người trong cuộc. Những nhận định, liên hệ, so sánh, đánh giá trong bài viết này phản ánh lăng kính rất riêng của tác giả, dưới một góc nhìn tinh tế, cởi mở, mang tính đối thoại của anh. Đăng tải bài viết này chúng tôi mong muốn góp phần đa dạng hóa, đa chiều hóa các cách tiếp cận về văn học miền Nam. Rất mong nhận được các ý kiến phản hồi của bạn đọc. TCSH

  • MAI VĂN HOAN giới thiệuNăm 55 tuổi, Hồng Nhu từng nhiều đêm trăn trở, băn khoăn lựa chọn việc trở về quê hay ở lại thành phố Vinh - nơi anh gắn bó trọn hai mươi lăm năm với bao kỷ niệm vui buồn. Và cuối cùng anh đã quyết tâm trở về dù đã lường hết mọi khó khăn đang chờ phía trước. Nếu không có cái quyết định táo bạo đó, anh vẫn là nhà văn của những thiên truyện ngắn Thuyền đi trong mưa ngâu, Gió thổi chéo mặt hồ... từng được nhiều người mến mộ nhưng có lẽ sẽ không có một nhà văn đầm phá, một nhà thơ “ngẫu hứng” như bây giờ.

  • LÊ HỒNG SÂMTìm trong nỗi nhớ là câu chuyện của một thiếu phụ ba mươi tám tuổi, nhìn lại hai mươi năm đời mình, bắt đầu từ một ngày hè những năm tám mươi thế kỷ trước, rời sân bay Nội Bài để sang Matxcơva du học, cho đến một chiều đông đầu thế kỷ này, cũng tại sân bay ấy, sau mấy tuần về thăm quê hương, cô cùng các con trở lại Pháp, nơi gia đình nhỏ của mình định cư.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ     (Đọc “Cạn chén tình” - Tuyển tập truyện ngắn Mường Mán, NXB Trẻ, 2003)Với gần 40 năm cầm bút, với hơn hai chục tác phẩm văn xuôi, thơ và kịch bản phim, nhà văn Mường Mán là một tên tuổi đã quen thuộc với bạn đọc, nhất là bạn đọc trẻ. Có lẽ vì ấn tượng của một loạt truyện dài mà ngay từ tên sách (Lá tương tư, Một chút mưa thơm, Bâng khuâng như bướm, Tuần trăng mê hoặc, Khóc nữa đi sớm mai v...v...) khiến nhiều người gọi ông là nhà văn của tuổi học trò, trên trang sách của ông chỉ là những “Mùa thu tóc rối, Chiều vàng hoa cúc...”.

  • NGUYỄN VĂN HOATranh luận Văn Nghệ thế kỷ 20, do Nhà xuất bản lao động ấn hành. Nó có 2 tập: tập 1 có 1045 trang và tập 2 có 1195 trang, tổng cộng 2 tập có 2240 trang khổ 14,4 x 20,5cm. bìa cứng, bìa trang trí bằng tên các tờ báo, tạp chí có tư liệu tuyển trong bộ sách này.