Chuyện trò với nhà thơ Xuân Hoàng: tâm sự một đời cầm bút
08:44 22/07/2011
L.T.S: Nhà thơ Xuân Hoàng sinh năm 1925 tại Đồng Hới, Bình Trị Thiên. Hội viên Hội nhà văn Việt Nam. Nguyên là quyền Chủ tịch Hội Văn nghệ Bình Trị Thiên, thuở nhỏ ông học ở Huế rồi dạy học ở Đồng Hới một thời gian trước khi thoát ly tham gia cách mạng.
Ông là một trong những nhà thơ đầu tiên ở đây gia nhập Đoàn Thanh niên Cứu Quốc và tham gia cướp chính quyền trong Cách mạng tháng Tám. Ông đã từng được nhiều giải thưởng về thơ của các báo, tạp chí văn nghệ trong các cuộc thi thơ toàn quốc. Tác phẩm chính đã xuất bản:
- Tiếng hát quê hương (tập thơ) 1959 - Du kích sông Loan (trường ca) 1963 - Miền Trung (tập thơ) 1967 - Hương đất biển (tập thơ) 1971 - Biển và bờ (tập thơ) 1975 - Dải đất vùng trời (tuyển thơ) 1976 - Về một mùa gió thổi (tập thơ) 1983 - Từ tiếng võng làng sen (trường ca) 1984 - Quãng cách lặng im (tập thơ) 1984
Bài phỏng vấn dưới đây được thực hiện thay lời chúc mừng của Sông Hương nhân dịp nhà thơ tròn 60 tuổi.
Tôi biết anh có thể nói là gần mười năm. Nhưng vả chăng, biết là một chuyện, còn hiểu, hiểu thật sự, hiểu sâu sắc về một con người, một nhà thơ là một chuyện khác. Huống chi con đường sáng tác của anh đã trải qua cũng khá dài, hơn 40 năm, liên tục, không ngừng, không nghỉ, mỗi chặng đường đều có những thành tựu nhất định. Thời chống Pháp, thời chống Mỹ và trong mười năm lại đây, mỗi thời kỳ thơ của anh đều có đâm bông kết trái, khi ít khi nhiều, khi là những nụ đầu còn tươi mát ngây thơ, hồn nhiên, khi nở rộ rực rỡ ngát hương khi sâu lắng tỏa hương thầm chín tới qua kinh nghiệm của thời gian, tuổi tác tuổi nghề và khát vọng vươn tới gạn lọc. Mà tôi, tôi chỉ hiểu được một vài mảnh rất nhỏ nhoi trong đó. Anh có cái cường tráng, cái hăng, cái bốc của tâm hồn thơ nên viết nhanh, viết khỏe, viết nhiều. Chuyện vơi nguồn cảm hứng, khô cằn sáng tác, dừng bút, nghỉ bút, treo bút, hình như không được đặt ra với anh. Cảm hứng của anh như vô tận, lai láng không bờ không bến. Nhưng thơ anh nói chung là không đều tay, bên cạnh một số bài hay, bài khá, bài được, còn một số khác ở cái dạng: không dở, không kém, mà cũng không hay, có nghĩa là “được được”, “tàm tạm”, “thường thường bậc trung”, mà số này cũng không phải ít, chẳng may ai đọc mãi nhằm loại này trong thơ anh thì dễ hiểu sai lệch, dễ có cái ấn tượng chẳng tốt đối với thơ anh nói chung.
Tiếp xúc với anh, người ta thấy mến, thương, có cảm tình, dễ gần gũi hơn là cảm giác nể, phục, sợ, chẳng biết ấn tượng đó có chủ quan không, nhưng quả đúng là như thế. Tác phong của anh là sự trộn lẫn giữa xoàng xoàng, giản dị và sự nguyên tắc, chững chạc. Có một anh chàng nhà giáo, một người làm công tác tuyên truyền trong một tâm hồn lãng mạn, nhạy cảm. Khi thì con người này, khi thì con người khác thắng thế trong thơ anh. Trong đối xử anh là một con người hồn hậu và có thể nói là vô tâm. Không bao giờ anh để bụng thù hằn ai hoặc giận ai quá lâu. Với chiều cao, khoảng một thước sáu lăm, vóc hình anh cân đối, nhờ cái bề ngang đầy đặn vừa phải so với chiều cao. Sáu mươi tuổi, nhưng trông anh có vẻ trẻ hơn tuổi, nhờ anh giữ điều độ, mực thước trong ăn uống, nghỉ ngơi và làm việc. Trưa nào cũng phải ngủ một giấc, tối ngủ sớm, tập thể dục thường xuyên, không thuốc lá, rượu khi vui mới uống và uống ít nhưng cũng hết được một cuộc, chỉ có cái khoản trà và cà phê là thường xuyên. Bản chất anh lạc quan, yêu đời, vô lo, hay đãng trí trong một số việc thường nhật, có khi được anh em văn nghệ trêu chọc như một giai thoại, hay cười khi gặp những điều thích thú, đặc biệt là những kỷ niệm vui về văn nghệ hay khi đọc sáng tác của mình, và đã cười thì rất to, cười ha hả như để cái thích của mình bộc lộ hết, tràn đầy ra ngoài.
Lần nào anh cũng tiếp tôi với thái độ niềm nở, cởi mở và có thể nói là thân tình. Ánh mắt anh, và toàn bộ con người anh toát lên một dáng vẻ mong được cảm thông, được hiểu biết và được đánh giá đúng về mình. Tôi thì tôi trân trọng, quý mến anh và cũng rất mong được hiểu biết anh nhiều hơn, đầy đủ hơn, sâu sắc hơn và cũng có cái háo hức của kẻ thám hiểm mong dò tìm vũ trụ thơ có những phần còn là những dải đất xa lạ mà mình chưa biết tới.
PV:Thơ anh rất nhiều tập, vậy xin anh cho biết những tập thơ nào được anh thích nhất?
XUÂN HOÀNG: Trước hết có thể đọc “Dải đất vùng trời”, đây là tập thơ tuyển ba mươi năm làm thơ của tôi nó khá toàn diện, đọc nó có thể hiểu được cuộc đời thơ ca của tôi một phần lớn. Sau nữa, các bạn có thể đọc hai tập thơ “Biển và bờ” (1976) và “Quãng cách lặng im” (1984), đó là hai tập thơ mà tôi thích nhất, tập đầu có xu hướng sử thi, tráng ca, anh hùng ca, tập sau là xu hướng trữ tình nội tâm, giọng tâm sự. Về trường ca, tập “Từ tiếng võng làng Sen” là tập tiêu biểu của tôi.
PV:Anh vừa nói xu hướng sử thi và xu hướng trữ tình trong thơ anh, vậy thơ anh có quy tụ theo hai hướng ấy không? Nếu có, những tác giả thơ mà anh chịu ảnh hưởng là những người nào?
XUÂN HOÀNG: Đúng, thơ tôi có hai hướng quy tụ chính nói trên. Thuở đi học, tôi thường chịu ảnh hưởng của Vich-to Huy-gô. Thơ ông vừa có cả hai hướng trên và hướng nào cũng có sự thành tựu. Còn ở Việt Nam, thơ trữ tình của Huy Cận, thơ sử thi của Huy Thông là những ví dụ tiêu biểu vạch hướng cho sự chọn lựa của tôi. Loại sử thi (épique) chủ yếu là thơ hát ca về cái hùng tráng của lịch sử và những con người anh hùng, cá nhân hay tập thể làm nên lịch sử. Mấy mươi năm qua, lịch sử đã xâm nhập thẩm thấu, quy định toàn bộ số phận dân tộc ta và cũng là số phận các cá nhân, không ai đi ra ngoài được quỹ đạo đó. Và lịch sử đó là lịch sử của một dân tộc anh hùng đã anh dũng chiến đấu với kẻ thù có sức mạnh vật chất gấp trăm lần mình mà đã chiến thắng. Thơ không thể không ngợi ca cái đó. Vả lại sứ mệnh của thơ ca và nhà thơ trong hoàn cảnh của một đất nước đang trải qua hai cuộc kháng chiến ác liệt, gian khó như vậy, không thể đứng ngoài cuộc, nhà thơ là tham dự, là chiến sĩ là người đứng đầu sóng ngọn gió, mô tả, hát ca về cuộc chiến đấu kiên cường; anh dũng của nhân dân mình, cổ vũ khích lệ nhiệt tình, đốt cháy ngọn lửa thiêng là lòng yêu nước nơi mỗi công dân. Và nhà thơ trong hoàn cảnh đó phải là một công dân, mà vũ khí cầm chặt trong tay là ngòi bút, tâm hồn, trí tuệ, lòng căm thù và tình yêu và hẳn là niềm tin vững chắc nữa. Nhà thơ đánh địch bằng vũ khí tinh thần. Nhưng nhà thơ còn là một con người - hiểu theo nghĩa con người nhân loại - nhà thơ phải cố gắng và nỗ lực trở nên nhân loại nhất và không cái gì thuộc về con người mà có thể xa lạ đối với nhà thơ”. “Cái tôi” phải có của nhà thơ và “cái ta” của dân tộc, của nhân loại phải cố gắng hòa nhập vào làm một, đó là cái bản lĩnh sống của người làm thơ và bản lĩnh của sự khái quát của anh ta và đó là cái gốc rễ của thơ trữ tình. Thơ trữ chính vốn xuất phát từ chủ thể cảm xúc, cái tôi riêng của nhà thơ trong các mối quan hệ với thế giới bên ngoài: thiên nhiên, xã hội lớn (đất nước, dân tộc, nhân loại), xã hội nhỏ (gia đình, tình yêu, bạn bè, thân thuộc) và đôi khi với cả chính mình, giữa những mâu thuẫn trong lòng không thể không biểu lộ, không thể không giải quyết sự xung đột một cách nào đó trong cảm xúc thơ để tiến tới sự hài hòa, bình ổn trong nội tâm. Thơ trữ tình là tiếng nói con tim, là lời biểu lộ tâm sự, là sự bộc bạch tâm hồn khi có tác động của thế giới bên ngoài hoặc là sự nhìn lại cái thế giới bên trong khi khối lòng có điều ngổn ngang muốn được cảm thông trong sự bày tỏ. Thơ trữ tình của tôi bao giờ cũng mong đạt tới sự hòa nhập hữu cơ giữa “trữ tình cá thể” và “trữ tình công dân”. Ngay cả trong chiến tranh tôi có tìm được cái vẻ đẹp bình thường của cuộc sống để tạo cho được sự quân bình, trong cái dữ dằn, khốc liệt của chiến tranh mà trong đó cảm xúc với thiên nhiên chiếm vị trí chủ đạo: một đêm trăng Trường Sơn bình yên và thanh thản, một vầng trăng ảo mộng đẹp như xứ sở của huyền thoại mà con đường uốn lượn theo những dốc đèo cheo leo, những thác sâu, vực thẳm, khuất, ẩn hiện vẻ đẹp của thiên nhiên đem lại sự bình ổn cho tâm hồn thơ và dĩ nhiên là cả cho độc giả, nó đem lại những giây phút nghỉ ngơi hiếm hoi để tái tạo lại sức mạnh mà tiếp tục chiến đấu giữa cuộc chiến tranh đang gào thét với những âm thanh cuồng nộ.
Tuy nhiên, theo tôi có lúc hai loại này - sử thi và trữ tình có sự giao tiếp và sự giao tiếp càng lớn và càng nhuần nhuyễn một cách vô hình bao nhiêu thì sự thành công của một bài thơ càng dễ đạt tới bấy nhiêu, đặc biệt là thơ về đề tài chiến tranh: Bởi thơ về chiến tranh của ta là thơ của chủ nghĩa anh hùng cách mạng, nó thiên về ngợi ca, nhưng nó phải bộc lộ qua cái riêng của chủ thể trữ tình của người làm thơ, có thể nó mới không chung chung, sơ lược, hời hợt. Thơ chiến tranh của tôi đi theo hướng đó và phần lớn các tập thơ trước 76. Nhưng nói nó có được, có khá chưa, thì cái đó vẫn còn tùy độ chính xác của cảm xúc, của tứ thơ, của nghệ thuật âm thanh, hình ảnh, chữ nghĩa… Phải thú thật rằng thơ trữ tình đích thật và sâu xa của tôi trước năm 75 còn bị giới hạn do hoàn cảnh, tâm lý của thời đại, mà chính tôi và nhiều người làm thơ khác bị ràng buộc, trong đó, đôi khi còn cái cảm giác “sợ trật” làm thơ có phần nào thiếu bề sâu. Chính những tập thơ sau 75 của tôi, nhất là tập “Quãng cách lặng im” theo tôi, đó là một tập thơ trữ tình thật sự, cũng là do hoàn cảnh xã hội khác, thuận lợi hơn, quan điểm chỉ đạo văn nghệ rộng mở hơn, quần chúng cũng có nhu cầu khác, tinh thần khác trước và có thể nói tôi đã có phần chính trong kinh nghiệm bên trong mà cũng có thể là tâm hồn trữ tình của tôi được giải phóng do đó mà tập thơ này được dư luận chú ý và tác phẩm này là niềm vui của tôi, nó là bước tìm đường mới, cái mới lớn trong đời thơ tôi, và cũng từ nó tôi rút nhiều ưu khuyết điểm, sở trường, sở đoản trong nghề thơ.
PV:Xin anh cho biết hai bài thơ mà anh đắc ý nhất?
XUÂN HOÀNG: Đó là hai bài tiêu biểu trong hai tập thơ mà tôi yêu thích, bài Phu-la-nhích trong tập “Biển và bờ” có âm hưởng sử thi, có cái giọng điệu hùng tráng. Còn bài thứ hai là bài “về với biển” trong tập “Quãng cách lặng im” đó là giọng trữ tình sâu lắng, mượn hình ảnh của biển để nói những khát vọng của tâm hồn của đời thơ ký thác tâm sự với đời, với những người trẻ và bài đó kết tinh cả cuộc đời bên trong của tôi. (Rồi anh đọc cho tôi nghe hai bài đó, tôi nhận thấy đúng là hai bài thơ loại hay)
PV:Anh sở trường thể thơ nào?
XUÂN HOÀNG: Một anh bạn thân có ý kiến cho rằng tôi sở trường về loại thể thơ 5 chữ, 7 chữ, và lục bát. Tôi thấy ý kiến đó cũng có phần đúng, nhưng tôi nghĩ rằng mỗi thể thơ như một khí cụ âm nhạc thường phù hợp với loại nhạc riêng, và mỗi loại có một cái hay riêng, vĩ cầm, dương cầm, ghi-ta đều có cái âm sắc độc đáo của nó. Mỗi thể thơ cũng vậy, nó phù hợp với loại cảm xúc, một loại tâm trạng, như hai bài thơ tâm đắc mà tôi mới nói trên đều viết theo thể tự do. Và tôi nghĩ đã đi hẳn với nghề thơ nên cố gắng thạo mọi thể thơ, như thể thơ sẽ đa dạng hơn về mặt hình thức và nghệ thuật. Đôi khi một cảm hứng bất chợt nào đó hiện lên nó đã sẵn có cái áo khoác thể thơ này hay thể thơ kia rồi.
PV:Anh có lần nào suy ngẫm lại sở trường và sở đoản của mình chưa? Và cả việc lắng nghe ý kiến dư luận nữa?
XUÂN HOÀNG: (Nét mặt anh đăm chiêu và có vẻ hơi ưu tư): Có người nói một số bài thơ tôi trước kia có vẻ tản mạn, loãng. Có người cho rằng một số bài khác có chữ nghĩa sáo, đôi người khắt khe hơn còn cho rằng có một số bài hời hợt. Tôi cho rằng tất cả cái đó đều có phần đúng. Đó là những người đọc gặp loại thơ trung bình hoặc trung bình kém của tôi. Âu đó là sở đoản đôi khi không tránh khỏi một người làm thơ nhiều và khá mạnh như tôi. Nay qua kinh nghiệm của mấy tập thơ gần đây, tôi đã “chín” hơn và bài nào tôi mới viết khoảng thời gian lại đây cũng “cô đọng” hơn, tập trung hơn, và có chiều sâu hơn. Và sự trăn trở viết cho hay hơn, là ước vọng của mỗi người làm thơ, nhất là đối với tôi, mỗi nhà thơ nếu muốn tồn tại đều phải bắt đầu lại, tuy nhiên sự bắt đầu này hẳn khác chặng đầu tiên, nó là sự bắt đầu của một biện chứng, một tổng hợp mới do bản thân, sự phát triển của cuộc sống và đời sống thơ ca quy định, đó là ý nghĩa của mọi tìm tòi, đổi mới mà tôi đang cố gắng vươn tới.
PV:Và đó cũng là cách trả lời của anh cho những cuộc thảo luận về thơ, hướng đi, chất lượng của thơ đang sôi nổi hiện nay?
XUÂN HOÀNG: Vâng, có lẽ thế một phần. Người ta nói thơ cần cách tân cả nội dung lẫn hình thức cho phù hợp với nhu cầu của giai đoạn mới, nhất là nhu cầu của độc giả. Có xu hướng đòi nội dung phải mạnh mẽ hơn như một số vấn đề mà các tác phẩm văn xuôi hiện nay đang đề cập, có xu hướng thì đã đổi mới hình thức như kiểu thơ trí tuệ, thơ văn xuôi… Riêng tôi cho rằng bản lĩnh của mỗi nhà thơ là tìm cách biểu lộ phù hợp nhất với cái tạng của mình và cách nhìn nhận của mình đối với những biến đổi của cuộc sống. Tôi cũng đang thử nghiệm cả thơ trí tuệ, lẫn thơ văn xuôi, nhưng tôi cho rằng thơ gì đi nữa “cái chất thơ” của tâm hồn người viết và của bài thơ là điều chủ yếu. Riêng tôi, tôi khẳng định cái xu hướng thơ “trữ tình cá thể” gắn chặt với “trữ tình công dân”. Nhà lý luận nói rằng ngôn ngữ khoa học, nhà thơ phải nói bằng ngôn ngữ thơ và cái chính là bằng tác phẩm. Tập thơ “Quãng cách lặng im” của tôi là một sự đổi mới của phong cách thơ và nó đã có một tiếng vang, một thành công nhất định nào đó.
PV:Anh có đọc thơ của những người viết trẻ không? Cảm tưởng của anh ra sao?
XUÂN HOÀNG: (Anh ngần ngừ một lúc, đắn đo, rồi trả lời). Mỗi thế hệ đều có quyền có tiếng nói của mình, có cách nhìn nhận và đánh giá cuộc sống của mình, đó là điều cần phải tôn trọng. Anh em làm thơ trẻ, có nhiều tìm tòi, nhiều suy nghĩ cả về mặt hình thức, lẫn nội dung. Tôi đang cố đọc và cố tiếp xúc thật nhiều và đang xem xét. Có cái tôi chịu được, có cái không hợp tạng, thế thôi.
PV:Dự định sáng tác sắp tới của anh ra sao? Nếu có thể xin anh cho biết anh có định ra mắt tập thơ nào mới?
XUÂN HOÀNG: Tôi đang định viết một trường ca dài gồm nhiều chương về vùng đất Bình Trị Thiên này trong một thời gian mấy trăm năm, cả huyền thoại lẫn lịch sử và đã lên đề cương và đã bắt đầu viết xong chương thứ nhất. Còn cho ra mắt tập mới ư? Tập thơ “Quãng cách lặng im” của tôi vừa rồi người ta cho biết là bán rất chạy và đã hết sạch, nhà xuất bản rất tiếc là đã in ít và do đó tôi hy vọng họ sẽ dễ dàng với tập thơ mới của tôi. Tôi đang tập hợp khoảng 70, 80 bài thơ viết về Huế và trên một trăm mấy chục bài viết về đề tài Đồng Hới, hai quê hương của tôi và sẽ gởi cho nhà xuất bản tập này. Tôi còn khoảng hơn 200 bài xon-nê mà tôi định lọc lại để chọn thành một tập khác. Hiện nay tôi cũng đang viết một vài truyện ngắn theo lối tôi cho phù hợp với tôi, truyện ngắn pha với tùy bút, truyện có chất thơ.
PV:Xin cảm ơn anh và chúc anh có nhiều thành tựu mới trong sự nghiệp văn chương.
Anh xiết chặt tay tôi. Chia tay với anh, tôi hiểu thêm nhiều về một trong những gương mặt tiêu biểu của nền thơ ca Bình Trị Thiên, một con người có năng lực sáng tạo rất dồi dào, sung sức và đang đi tới những thành tựu mới và một con người có tính tình hồn hậu, đầy nhân tính và đang mong ước được đổi mới như dòng đời, như thơ, vốn luôn trẻ mãi mà già dặn bên trong.
LÝ HẠNHAi trong đời chẳng đã một lần làm thơ. Dù làm thơ để giải trí hay sẻ chia thì những trang thơ ấy cũng là tiếng hát của trái tim, là nơi dừng chân của tâm hồn.
LTS: Có một chuyện ít người biết là các nhà văn Tô Hoài, Xuân Diệu, Huy Cận không nhớ ngày sinh của mình. Xuân Diệu, con nhà Nho, thì biết mình sinh giờ Thìn, ngày Thìn, tháng Thìn, năm Thìn, nhưng không biết dương lịch ngày nào. Nhà văn Tô Hoài cũng vậy, nhưng nhớ Bà Cụ cho biết sinh ông đêm rằm Trung Thu. Sau này, sang Nga, bạn người Nga hỏi, mới tra ra ngày Tây là 27-9-1920. Do đó trên các tư liệu, thường thấy ghi ngày sinh: 07-9-1920, và nhà văn cũng không buồn đính chính. Nhân kỷ niệm 90 năm ngày sinh nhà văn Tô Hoài, Sông Hương nhận được bài viết của nhà văn Đặng Tiến cùng thông tin về ngày sinh Tô Hoài nói trên. Xin giới thiệu cùng bạn đọc.
HOÀNG DŨNGKhông phải ngẫu nhiên khi ta nói vũ trụ, thế giới thì vũ, giới là không gian, mà trụ, thế là thời gian. Ngay trong những khái niệm tưởng chỉ là không gian, cũng đã có thời gian quấn quýt ở đấy.
LTS: Trong các ngày 7-9/9/2010 sắp đến, Ủy ban Văn hóa Hội đồng Giám mục Việt Nam và Tòa Tổng Giám mục Giáo phận Huế sẽ tổ chức Hội thảo về thân thế và sự nghiệp của Léopold Cadière (1869-1955), Nhà nghiên cứu về Huế và Việt Nam học, chủ bút của tập san Bulletin des Amis du Vieux Hué (B.A.V.H), một trong số các tờ báo hay nhất ở Đông Dương thuở trước. Hội thảo sẽ có một số nội dung liên quan đến văn hóa Huế như Văn hóa Huế, Mỹ thuật Huế, Cổ vật Huế dưới con mắt của L. Cadière... Nhân dịp này, Tạp chí Sông Hương đăng bài viết của nhà nghiên cứu Hồ Vĩnh, chuyển tải vài nét về hoạt động văn hóa của Léopold Cadière. Xin giới thiệu cùng bạn đọc.S.H
NGUYỄN THỊ HÒA Không cần phải bàn cãi, Từ điển tiếng Huế của Tiến sĩ, Bác sĩ Bùi Minh Đức là một tác phẩm Từ điển. Một quyển từ điển về phương ngữ địa phương Huế mà dày dặn, công phu, với 2050 trang, thể hiện công sức nghiên cứu miệt mài của một vị bác sĩ - nghiệp dư với nghề ngôn ngữ, nhưng đầy nhiệt tình và khá chuyên nghiệp trong nghiên cứu.
Sinh ngày 6-2-41 tại Huế. Hy sinh ngày 11-10-68 tại vùng biên giới tỉnh Tây Ninh, nguyên quán làng Bát Tràng tỉnh Bắc Ninh. Học sinh cũ Trường Quốc Học, tốt nghiệp Đại học Sư phạm Ban Việt văn. Tên thật và bút hiệu công khai, chính thức: Trần Quang Long. Các bút hiệu khác: Thảo Nguyên, Chánh Sử, Trần Hoàng Phong.
TRẦN HỮU LỤCỞ tuổi 20, hành trình sáng tác của Nhóm Việt gắn liền với những biến cố lịch sử ở miền Nam (1965-1975). Những cây bút trẻ của Nhóm Việt đã bày tỏ một thái độ dấn thân ngày càng sâu sắc, vừa trên bình diện ý thức công dân, vừa trên bình diện ý thức nghệ sĩ.
NGUYÊN QUÂN Phía đằng sau những con chữ bình dị như một chốn quê nhà chưa bị ô nhiễm cơn đau phố bụi, một ngôi làng yên bình vẫn luôn hằng hiện trong mỗi hơi thở, mỗi bước gian truân của tác giả là sự chân thật đến nao lòng.
LÝ HOÀI THU Những câu thơ đầu tay của Hữu Thỉnh cất lên từ những cánh rừng Trường Sơn được anh gọi là “Tiếng hát trong rừng”. Anh viết về đồng đội, về cơn sốt rét rừng, về những trận bom và vết hằn xe xích, về mây, suối, dốc, thác Trường Sơn.
THÁI DOÃN HIỂU…Khi sự vong ân bội nghĩa của người đời đang diễn ra ở khắp đó đây thì Hoàng Trần Cương là người sống bằng ân sâu nghĩa cả. Với anh, ân nghĩa là một gánh nặng phải gánh. Anh nói về ân nghĩa như là một thứ trí nhớ của lương tri, một món nợ không bao giờ trả xong…
VŨ DUY THÔNG (Thơ - Nghiêm Huyền Vũ, Nxb Trẻ 2000)Khác với bên ngoài, Nghiêm Huyền Vũ trong thơ là người trầm tư, cái trầm tư nhuốm vị triết học.Vây bọc quanh anh là không gian, thứ không gian cô liêu.
TRẦN QUỐC THỰCÍt người chịu đi tìm tiếng nói riêng khi đọc một tập thơ, một chặng thơ của một người. Qua từng chặng thơ, tiếng nói riêng ấy sẽ trở thành một cách thơ riêng biệt. Và đó là điều đáng mừng cho đội ngũ sáng tác.
LGT: Cuốn tiển thuyết “Biết đâu địa ngục thiên đường” của nhà văn Nguyễn Khắc Phê vừa xuất bản được xem là tác phẩm thành công nhất của ông, cũng là cuốn tiểu thuyết viết kỹ lưỡng nhất, lâu nhất. Cuốn tiểu thuyết này hiện nay nằm trong danh sách những cuốn vào chung khảo cuộc thi tiểu thuyết của Hội Nhà văn Việt Nam. Sông Hương xin giới thiệu những ý kiến nhận định rất chân thành của Giáo sư Trần Đình Sử, nhà văn Ma Văn Kháng và nhà nghiên cứu phê bình Từ Sơn.
FAN ANHCon người khác con vật không chỉ ở đặc điểm con người có một bản ngã, một cái tôi luôn biến động, mấu chốt nằm ở chỗ, con người có thể có nhiều bản ngã khác nhau, tồn tại một cách âm thầm trong những thế giới mà nhiều khi ngay bản thân mỗi cá nhân chúng ta cũng không thể am tường hết.
ĐỖ NGỌC YÊNHồ Quý Ly là một nhân vật lịch sử có thật. Hơn nữa ông đã từng làm đến chức quan Thái sư dưới thời nhà Trần khoảng từ năm 1370 - 1400, và lập nên nhà Hồ từ năm 1400 - 1407.
Phỏng vấn nhà nghiên cứu Nguyễn Việt - chuyên viên Hiệp hội CLB UNESCO Việt Nam – nhân cuộc triển lãm thư pháp thơ “Nhật ký trong tù” của Bác Hồ tại Bảo tàng Hồ Chí Minh Thừa Thiên Huế 8-2000
LÊ HUY QUANGVào ngày 19/5/2010 này, cả nước ta sẽ tưng bừng Kỷ niệm 120 năm Ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh - Anh hùng giải phóng dân tộc, Danh nhân Văn hóa thế giới, nhà thơ Hồ Chí Minh, một người Việt Nam đẹp nhất.