Một đất nước không có nghệ thuật giống như con người không có tâm hồn, nhưng nghệ thuật ấy mà đóng đinh một chỗ thì chẳng khác nào một tâm hồn cằn khô. Rất may, nhiều nghệ sĩ vẫn miệt mài lao động và chuyển mình sáng tạo.
Một sắp đặt trên tranh của Nguyễn Thế Hùng năm 2018 với tổng hợp của vàng, bạc, sơn son, giấy dó, màu nước và toan
Thay đổi cách nhìn
Có thể dẫn chứng bằng triển lãm bộ tranh mới nhất của Nguyễn Thế Hùng - “Miền lạc du” (triển lãm tại Hanoi Studio vừa qua). Đích thị là lạc du, là hành trình miên man, dẫn dắt ta lạc lối. Năm 2018 đánh dấu sự tìm tòi đầy ngẫu hứng của Hùng trong bộ tranh với chất liệu tổng hợp của vàng, bạc, sơn son, giấy dó, màu nước… trên toan. Anh khai thác tối đa chất cảm, hiệu ứng và thế mạnh của những chất liệu này, những lớp hình liên tiếp ẩn hiện trong cái xôm xốp, tinh tế, mềm mại mà chỉ giấy dó mới có thể mang lại. Sơn son vốn được dùng trong sơn mài mang lại vẻ óng ả, sâu hút, trong khi ánh kim loại của vàng, bạc tạo nên những lấp lánh.
Không còn sự khúc triết đầy lý trí của bố cục, của các sắp đặt trên tranh như trong bộ tác phẩm “Vùng nhiều mây” năm 2017, mà chỉ thoáng ẩn hiện đâu đó những chi tiết nhỏ: Một bàn tay, một cặp mắt, một bờ môi trong hòa sắc nhẹ bỗng… Đâu đó thấp thoáng sợi chỉ vàng ngẫu hứng như kết nối bất ngờ các không gian và vật thể. Nó như những sợi tâm linh vô hình, đẩy đưa, dẫn dắt tiềm thức ta, để thấy sự hiện hữu của chúng ta trong không gian lơi lỏng, buông chùng của khu vườn thiên nhiên. Nhờ vậy, sáng tạo tuy là của nghệ sĩ mà người xem như được du ngoạn trong tâm tưởng của chính mình.
Ở bộ tranh trước, Nguyễn Thế Hùng là người chỉn chu trong phác thảo, chuẩn bị nguyên vật liệu rất kỹ lưỡng, thế nên từ bố cục, mảng miếng rồi ý thức về không gian, sự đồng hiện, phần chìm phần nổi của khối hình đều có toan tính hết. Còn ở bộ tranh này, thực ra ban đầu Hùng vẫn muốn đi lại câu chuyện như vậy ở một đề tài khác, nhưng rồi vô tình cảm xúc dẫn dắt khiến cho tác phẩm rẽ sang con đường hoàn toàn khác. Hay như loạt tranh “Đa diện” trưng bày ở L’Espace đầu năm 2016, là quá trình tìm tòi, từ kỹ thuật cắt dán, giấy bồi, nhiều chấm. Xa hơn là tác phẩm sắp đặt “Những chiếc bật lửa”, đính kèm theo câu ca dao, tục ngữ của người Việt như một phép so sánh ẩn dụ giữa những điều còn nguyên hoặc đã mất giá trị trong thời điểm hiện tại.
Dõi theo hành trình của một nghệ sĩ, ít nhiều thấy được sự chuyển dịch tư duy, cảm xúc, tự do sáng tạo tác động thay đổi nghệ thuật như thế nào. Nhìn lại, chính sự cộng hưởng những thay đổi lớn nhỏ ấy là nền tảng phát triển nghệ thuật đương đại Việt Nam.
Phá vỡ và gây dựng
So với thế giới, nghệ thuật đương đại ở Việt Nam sinh sau đẻ muộn, bắt đầu bằng triển lãm sắp đặt đầu tiên ở số 29 Hàng Bài năm 1996, của Nguyễn Minh Thành. Sự khởi phát đó còn có sự tham gia của Trương Tân và Nguyễn Văn Cường đưa performance art ra công chúng với tác phẩm “Mẹ và con”. Dùng chính sự ra đời nghệ thuật đương đại Việt Nam, từng chuyển động của hai nghệ sĩ diễn tả chuyển động nghệ thuật của đất nước, cũ và mới, quá khứ và tương lai xung đột… Người xem thấy tác phẩm hay và đẹp, tuy nhiên lúc bấy giờ, những thứ như vậy còn rất mới mẻ, chưa rõ ràng.
Trước khi trở thành một trong những gương mặt tiên phong của nghệ thuật đương đại Việt Nam, năm 1994 nghệ sĩ Trương Tân từng làm triển lãm “Cuộc đời” ở Pháp. Anh cho biết, trong triển lãm này, anh đặt rất nhiều tranh, tượng nhỏ bằng gốm và vẽ ra nền nhà giống như giải quyết một vấn đề: Tôi lớn lên, sang Pháp, gặp một trung tâm nghệ thuật và phát triển, sau là chết, đồng thời lại sinh ra tiếp. “Thực hiện nó, tôi từng tưởng mình đã làm được điều gì đó mới. Khi biết thực ra chẳng có gì mới cả, cái đó đã xuất hiện trên thế giới rồi, tôi lại tự hỏi tại sao mình lại tiến tới cái đó trong hoàn cảnh thiếu thông tin như vậy”, Trương Tân nhớ lại.
Mãi đến khoảng năm 2010, nghệ thuật sắp đặt, trình diễn mới nở rộ ở Việt Nam khi nghệ sĩ bắt đầu lựa chọn thử sức nhiều hơn ở thể loại này. Sở dĩ có sự rụt rè trước đó là bởi hầu hết họ sáng tạo trong hoàn cảnh thiếu thông tin, do các trường mỹ thuật chủ yếu dạy vẽ tranh và sắp đặt thường khó bán, kén khán giả và các gallery không mấy mặn mà. Tuy nhiên, có nhiều ẩn ức, day dứt, suy tư của cảm xúc, sức vượt thoát của lý trí và sự bật nhẩy ra ngoài khuôn khổ của nghệ thuật khiến cho nghệ thuật đương đại Việt Nam dần tìm được chỗ đứng. Đó là cách nhiều nghệ sĩ đương đại trả lời cho câu hỏi: Nghệ thuật phải chăng là sự chuyển dịch cảm xúc trong mỗi hành trình sáng tạo?
Nhưng nghệ thuật đương đại còn khoác lên mình một sức mạnh nữa, có cả tố chất phá vỡ và gây dựng, để đập tan cái cũ kỹ, lối mòn nhưng không làm biến mất đời sống tự thân trong lòng nó. Như cách Nguyễn Thế Hùng chọn hàng nghìn chiếc bật lửa hết gas tạo thành tác phẩm sắp đặt trong năm 2018, vì với anh, có những điều trong cuộc sống giống như chiếc bật lửa hết gas, chủ nhân của nó có thể vứt đi hay giữ lại nhưng nghệ sĩ thì có khả năng đọc vị để giúp nó sinh ra giá trị mới. Lối biểu hiện đương đại, vì vậy, cho rất nhiều đường dẫn để đưa nghệ sĩ đến với tác phẩm mà không bị cạn ý tưởng, còn công chúng thì đi từ chưa quen đến quen, từ quen đến hiểu. Đó là cách rút ngắn khoảng cách giữa hai đầu của một sợi dây, dần đưa nghệ thuật đương đại Việt Nam đi xa hơn.
Theo Thái Minh - ĐBND
Tham luận tại cuộc tọa đàm “Văn học trẻ Huế- nhìn lại và phát triển” của nhà thơ trẻ Lê Vĩnh Thái: "một lần ngồi uống cà phê tôi được một nhà thơ, người anh trong Hội thống kê về đội ngũ sáng tác trẻ nữ của cố đô Huế chỉ có vỏn vẹn chưa đầy 5 người mà tuổi đã ngoài 30, còn tuổi từ 20, 25 đến 30 thì không thấy!?... "
Từ cuối tháng 6. 2008, trên mạng Internet, cùng lúc có những bài viết về nhiều nhà văn, nhà thơ ở Huế như Hoàng Phủ Ngọc Tường, Nguyễn Đắc Xuân, Nguyễn Khoa Điềm, Trần Vàng Sao, Tô Nhuận Vỹ và ở Quảng Trị, Quảng Bình. Các bài viết được đăng tải trên các báo điện tử nước ngoài (hoặc sách in ra được các tờ báo đó đưa lên mạng), cả trên tờ báo của một tổ chức chống nhà nước Việt Nam cực đoan nhất, và trên blogs của một số nhà văn trong nước (được một số báo điện tử nước ngoài nối mạng sau đó). Mục đích khác nhau nhưng các bài đó, tạm xếp vào hai loại, có một điểm giống nhau: DỰNG ĐỨNG những sự kiện của cuộc đời và hoạt động của các nhà văn nhà thơ này.
Thư Sông Hương Vậy là năm đầu của thế kỷ XXI, của thiên niên kỷ III Công lịch đã qua. Mới ngày nào đó, khắp hành tinh này còn rộ lên niềm hoang mang và hoang tưởng về một ngày tận thế ở năm 2000 bởi sự “cứu rỗi” của Thiên Chúa hoặc bởi sự “mù loà” của máy tính. Mới một năm thôi mà thế giới loài người đã qua biết bao bất trắc, xung đột, khủng bố... và máu và nước mắt! May mà đất nước chúng ta vẫn được bình yên, ổn định, phát triển theo Đường lối Đại hội IX của Đảng. May mà dân ta vẫn còn nhu cầu Văn hoá tâm linh. Văn hoá tâm linh cũng là thuộc tính của văn học nghệ thuật. Các tờ báo văn nghệ tồn tại được chính nhờ nhu cầu đó. Qua một năm nhìn lại, Tạp chí Sông Hương chúng tôi ngày một được bạn đọc tin cậy hơn, cộng tác càng nhiều hơn, thật là điều vinh hạnh. Song, ngược lại, chúng tôi cũng lấy làm áy náy vì bài vở thì nhiều mà trang báo lại có hạn, không thể đăng tải hết được, nhất là số Tết này. Ở đây, nó mang một nghịch lý chua chát, bi hài như một nhà viết kịch đã nói: “Số ghế bao giờ cũng ít hơn số người muốn ngồi vào ghế”. Ngoài sự bất cập ấy, hẳn còn có những điều khiếm nhã khác mà chúng tôi không biết làm gì hơn ngoài lời xin lỗi, lời cảm ơn và mong được thể tất. Chúng tôi xin cố gắng chăm lo tờ Sông Hương luôn giữ được sắc thái riêng, có chất lượng để khỏi phụ lòng các bạn. Dù thế giới có biến đổi thế nào đi nữa thì Sông Hương vẫn mãi mãi muốn được thuỷ chung với bạn đọc, bạn viết của mình. Nhân dịp tết Nhâm Ngọ, Sông Hương trân trọng chúc Tết các bạn sang năm mới thêm dồi dào sức khoẻ, thành đạt và hạnh phúc. S.H
Các bạn đang cầm trên tay số kỷ niệm 25 năm thành lập Tạp chí Sông Hương. Mới ngày nào đó, một ngày hè tháng 6 năm 1983, trong niềm khao khát của không khí đổi mới trong văn học nghệ thuật, Tạp chí Sông Hương số 01 ra mắt và đón nhận sự hưởng ứng của công chúng. Đó là một sự khởi đầu được mong đợi từ hai phía: người viết và bạn đọc.
Gần đây đọc các bài của Trần Mạnh Hảo và Nguyễn Hùng Vĩ bàn về ba bài thơ Thu của Nguyễn Khuyến trên Văn nghệ (1), tôi thấy câu "Nước biếc trông như tầng khói phủ" trong bài Thu vịnh là câu thơ sáng rõ, không có gì khó hiểu mà lại được bàn nhiều. Mỗi người hiểu mỗi cách mà đều hiểu không đúng, chỉ vì không để ý rằng câu thơ này được viết theo lối "đảo trang".
(Nhân đọc: "Truyện Mã Phụng - Xuân Hương") * Truyện "Mã Phụng - Xuân Hương" trước đây còn được quen gọi dưới nhiều tên khác nhau, lúc là Vè Bà Phó, Vè Mã Phụng - Mã Long, khi là Thơ Mụ Đội, khi lại là Truyện Mã Ô - Mã Phụng v.v... là một tác phẩm văn học dân gian vốn được nhân dân Bình - Trị - Thiên rất yêu thích, phạm vi phổ biến trước Cách mạng Tháng Tám 1945 khá rộng.
Trên Tạp chí Sông Hương số tháng 3, nhân sự kiện Trần Hạ Tháp dành được giải A trong cuộc thi truyện ngắn của báo “Văn nghệ”, tôi vừa lên tiếng về sự “lặng lẽ” - một điều kiện cần thiết để làm nên tác phẩm văn học nghệ thuật có giá trị, nay lại nói điều ngược lại, vậy có “bất nhất” có mâu thuẫn không?
Trên thực tế, việc bảo tồn những vốn quý của cha ông để lại quả không phải là việc đơn giản, dễ dàng. Nhưng chúng ta sẽ không thể có sự chọn lựa nào khác bởi vì sẽ không có một nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc nào cả nếu từ bây giờ chúng ta không biết giữ lấy những gì mình đang có.
Mang tên dòng sông duyên dáng thả mình bên thành phố Huế - SÔNG HƯƠNG, những trang tạp chí này là dòng chảy của những cảm xúc tươi đẹp trên “khúc ruột miền Trung” đất nước.
Từ xa xưa đến bây giờ, thường tục vẫn nói "sông có khúc người có lúc". Không biết Sông Hương bản báo năm rồi (năm tuổi 15) là sông hay là người? Có lẽ cả hai. Vậy nên cái khúc và cái lúc của nó đã chồng lên nhau - chồng lên nhau những khó khăn và tai tiếng!