TRẦN QUỐC TOÀN
Và mùa thu khi ấy...
mây xòe mưa đụn vào tiếng chim đầu mùa
rơi hoang trên nóc chùa rêu xám
khi ấy
người đầu trần chân đất
hành khất một mùa hoa
giữa ngực vết thương nở ra một huyền ảnh
tình yêu lưu dấu trên trán người mất ngủ...
Và mùa thu khi ấy
tủ sách mục
trong thớ lá biếc non
dấu răng loài sâu khoắm mùi diệp lục
trăng tròn bóng mọng sương
gió từ trong lòng châu thổ
ngùi thương…
Và mùa thu khi ấy
mở ra lòng phố
biển như ngôi nhà của những giấc chiêm bao
con bướm trắng bay giữa thùy trán
lá vàng xếp chồng lên dòng nghĩ ngợi
người ngồi dệt ký tự lên đêm…
Và mùa thu khi ấy
mây của nghìn năm hiện giữa sân nhà…
Biển đảo quê hương
Có loài chim biển neo trên cột gỗ cảng cá mùa thu
biển thì thầm cơn sóng dâng mây trắng mùa xanh từng ngọn tảo
ngư dân bám biển từng ngón chân sần sùi ướp vị mặn
đôi mắt chứa cả đại dương
biết nơi nào cá ngừ ở, cá chuồn bay,
những rặng san hô nhô cao khi tàu thuyền qua lại
những con tàu tuần tra báo hiệu một cơn bão
giữ cho ngư trường luôn trong trạng thái an toàn
biển như trái tim người mẹ đổ về từ muôn sông
tâm thức biển trong nghi lễ cầu ngư mỗi năm
là hình ảnh người lính hải quân canh gác
những câu chuyện về những chuyến tàu không số hiệu
chở vũ khí và lương thực tiếp tế hai miền
những người lính trên chuyến tàu năm xưa ấy,
nhớ mãi những bến cảng của lòng dân.
Biển đảo quê hương,
nghìn năm in bóng trong tâm thức
mỗi người con nước Việt đều mang trong mình ngọn lửa tổ tiên mình
là nơi gieo vào cuộc sống mầm sóng nơi con tàu Tổ quốc
biết rằng những giọt máu đã hy sinh cho cây bàng vuông
thắp xanh trên những đảo chìm đảo nổi
cột lại cơn bão tháng mười,
long lanh những vì sao sáng trên đầu ngọn sóng,
người lính viết vào đêm những nghĩ ngợi về nỗi nhớ đất liền...
Những ngư trường trên mặt nước có bao giờ bình yên,
chỉ có người lính mới hiểu mỗi cơn mưa nặng hạt,
giọt nước ngọt thiếu thốn trong sinh hoạt
cọng rau trong từng chiếc thùng xốp chắt chiu tình đồng đội,
những bài hát trong đêm nhớ nhà nối vào mênh mông sóng khát...
Biển đảo quê hương,
một sớm mờ sương cha đi nhặt giấc mơ có bữa cơm thơm mùi rong biển,
có con đường nối dài những dấu chân thợ thuyền
người thả mình trôi trên chiếc thuyền thúng câu mực
như một tiểu hành tinh đang trôi giữa ngân hà...
(TCSH427/09-2024)
Ta đã sống, và ta còn sốngCháy hết mình vì phẩm giá kiếp ngườiTa đã trải vô vàn cay đắngNên bây giờ đời càng đẹp gấp đôi
...Sao nhiều việc vẫn còn im lặng đáSức ỳ nào?Sao nhiều việc không bén nhanh như cứu hoả...
Tặng Hoàng HưngCó thật ông đấy không?Vừa đi vừa đếm bướcNhững bước trầm trên trảng cátMột bước lên, lại một bước lùi về
...Âm dương day trở cuộc sinh thànhMùa tinh tú phong phanh...
Nước cuộn xoáy chỗ sông tìm gặp biểnHãy còn nghe hương cỏ THẠCH XƯƠNG BỒ Nơi cuối sông nhớ về nguồn khắc khoảiSông hiền hòa nên được gọi sông THƠ...
Những đàn bà không chồngNhư những chiếc mâm cổLặng lẽ đầy rêu phong
Kêu sớm, kêu chiều, kêu cả hoàng hônKêu bồ đề xanh (*), kêu tượng đài trắngKêu buốt lá kim trên cây mọc thẳngTiếng kêu nhức nhức Trường Sơn.
...dòng sông quê mang chuyện tình trôi mãisông ơi...
Lê Vĩnh Tài sinh tại thành phố Buôn Mê Thuột, hội viên Hội văn nghệ Đắc Lắc. Năm 1996 anh có mặt trong tập thơ “6 ô cửa sổ” cùng với 5 tác giá trẻ Đắc Lắc; Và là đại biểu chính thức dự Hội nghị những người viết trẻ toàn quốc lần thứ V (1998).Thơ Lê Vĩnh Tài đẹp và buồn, bảng lảng như một tiếng gõ cửa mơ hồ, để lại những ngấn sóng xao xuyến trong lòng bạn đọc.
Con đẻ của Khánh Hoà nhưng là con dâu của Huế. Lê Khánh Mai tốt nghiệp Thạc sĩ khoa học xã hội và nhân văn, hiện là Tổng biên tập tạp chí Nha Trang. Ngoài 4 tập thơ và 1 tiểu thuyết đã xuất bản, Lê Khánh Mai còn có nhiều thơ in trong các tuyển tập khác.Thơ Lê Khánh Mai lành mà gợi, róc rách giữa hai dòng truyền thống và hiện đại, dùng dằng giữa hai nẻo hiện thực với mộng mơ...
Sinh 1954 tại Nghi Lộc, Nghệ An. Hiện là công nhân ngành in ở Huế. Hội viên Hội Nhà văn Thừa Thiên Huế. Tác phẩm đã xuất bản:- Lá thời gian- Tinh khôi- Chàng ca sĩ bình minh
Sinh ngày 29 - 05 - 1978 tại HuếNguyên quán: Đồng Hới - Quảng BìnhĐại biểu Hội nghị những người viết văn trẻ Việt Nam 2 lần V và VIHiện đang công tác tại Khoa Ngữ văn - ĐHSP HuếTác phẩm: Thơ “Khi em mười chín”- NXB Thuận Hoá 1998.
Tưởng chừng như dòng sông trôi chật hương bòng, hương bưởitưởng chừng như con đường quen, quen tựbao giờhình như tôi đã có lần tiền kiếpđêm thiên hà vỡ một ánh sao rơi
Có gì mà nhớ quêGặp sông nhìn đăm đắmThương bên lở bên bồiLo quê mùa nước lớn
Bãi cát nhàu muối mặnHoang dại một loài hoaAi đặt tên Cúc biểnMàu tím đỏ mượt mà
Em về với chị, quê xưaQuê em quê chị, bây giờ quê ai?Cách xa hút tháng năm dàiSao ngày trở lại lạnh gai cả người.
(Nhân lời kể của một người chơi chim)
Chị tôiphận gáiheo may về lơ lửng sáo diều ngânSông Bồ mười hai bếnbến nào nước đụcbến nào trong...
...Không hề có chia ly, không cả lời giã từ, chỉ phương ấy trongvô vọng của em, chợt giây khắc này bừng chói...
Gương mặt thánh thiệnSáng và buồn