MAI VĂN HOAN
Ngôn ngữ nói chung và chữ tôi nói riêng, khi bước vào tác phẩm văn học cũng có số phận thăng trầm liên quan mật thiết đến những thăng trầm của lịch sử nước nhà. Tìm hiểu chữ tôi trong tiến trình phát triển văn học Việt Nam là một đề tài khá lý thú. Ở bài viết này, tôi chỉ đi sâu khảo sát chữ tôi được thiên tài Nguyễn Du sử dụng trong tác phẩm Truyện Kiều.
Tranh của họa sĩ Ngọc Mai - Ảnh: internet
Người Việt chúng ta từ xưa đến nay thường sử dụng chữ tôi với ba nghĩa khác nhau. Nghĩa thứ nhất: Tôi là đại từ nhân xưng, thường dùng khi xưng hô với những người đồng trang lứa hoặc với mọi người. Khi xưng tôi với những người mà tuổi tác, địa vị cao hơn hoặc thấp hơn thì sắc thái biểu cảm của chữ tôi thay đổi tùy theo từng đối tượng, hoàn cảnh. Nghĩa thứ hai: Tôi là danh từ. Nghĩa này được dùng để chỉ quan hệ vua - tôi (bầy tôi của vua), quan hệ chủ - tớ (tôi tớ, tôi đòi…). Nghĩa thứ ba: Tôi là động từ (tôi luyện, tôi sắt, tôi vôi…). Cũng là đại từ nhân xưng nhưng chữ tôi có khác chữ ta. Ta thường được dùng khi người trên nói với kẻ dưới, mình nói với mình. Cũng có trường hợp ta được dùng để xưng hô với người mình yêu mến (mình - ta).
Theo Hoài Thanh: “Xã hội Việt Nam từ xưa không có cá nhân. Chỉ có đoàn thể: lớn thì quốc gia, nhỏ thì gia đình” (Thi nhân Việt Nam). Vì thế, trong văn học Trung đại, chữ ta xuất hiện khá phổ biến và Truyện Kiều cũng không là ngoại lệ. Mật độ xuất hiện của chữ ta trong Truyện Kiều khá dày đặc chẳng thua kém gì chữ hoa, chữ xuân, chữ mây, chữ tình, chữ nghĩa… Cõi người cũng được đại thi hào Nguyễn Du gọi là “cõi người ta”. Từ Kim Trọng, Thúc Sinh, Từ Hải, Hoạn Thư đến bọn “buôn thịt, bán người” như Tú Bà, Mã Giám Sinh, Sở Khanh đều có ít nhất một lần xưng ta. Ta hãy nghe Sở Khanh huyênh hoang với nàng Kiều: Ta đây nào phải ai đâu mà rằng!/ Nàng đã biết đến ta chăng/ Bể trầm luân, lấp cho bằng mới thôi! Hắn còn bốc phét: Rằng ta có ngựa truy phong/ Có tên dưới trướng, vốn dòng kiện nhi... Còn Hoạn Thư thì đay nghiến: Giấu ta, ta cũng liệu bài giấu cho/ Lo gì việc ấy mà lo/ Kiến trong miệng chén có bò đi đâu… Ngay cả nàng Kiều khi độc thoại nội tâm với bóng hình Kim Trọng cũng có lần xưng ta: Vì ta khăng khít cho người dở dang. Trong văn học Trung đại chữ tôi được dùng với nghĩa danh từ: bầy tôi, tôi tớ, tôi đòi… không hiếm, nhưng chữ tôi dùng với nghĩa đại từ nhân xưng thì vô cùng hiếm hoi. Tác phẩm Tự tình khúc của Cao Bá Nhạ dài ngót nghét 538 câu mà không hề có lấy một chữ tôi nào. Trước khi bắt tay viết bài này, tôi cũng đã cẩn thận rà soát lại Chinh phụ ngâm, Cung oán ngâm khúc, Lục Vân Tiên, thơ Cao Bá Quát, thơ Nguyễn Công Trứ… thì chỉ bắt gặp rải rác một vài chữ tôi với nghĩa danh từ, còn chữ tôi với nghĩa đại từ nhân xưng hầu như vắng bóng. Điều đó cũng không có gì khó hiểu. Thời phong kiến, bao nhiêu quan lại muốn tâu trình, muốn bày tỏ lòng mình với vua, chúa với những đấng minh quân đều phải xưng là bầy tôi. Đó là cái thời biết bao người phải đi ở đợ, phải đi làm thuê, làm mướn, phải sống kiếp lầm than thì trong văn chương xuất hiện nhiều chữ tôi đòi, tôi tớ là chuyện bình thường. Đó là thời mà “cá nhân, cái bản sắc của cá nhân chìm đắm trong gia đình, trong quốc gia như giọt nước trong biển cả” (Hoài Thanh, sđd). Vì vậy, trong các tác phẩm văn học Trung đại khó lòng tìm thấy chữ tôi theo nghĩa đại từ nhân xưng cũng là điều tất yếu. Chữ tôi với nghĩa đại từ nhân xưng chỉ “sinh sôi, nảy nở” trong các trào lưu văn học thời 30 - 45 (khi mà luồng gió từ phương Tây thổi ào ạt vào nước ta). Hoài Thanh hình dung: “Ngày thứ nhất - ai biết đích ngày nào - chữ tôi xuất hiện trên thi đàn Việt Nam, nó thực bỡ ngỡ. Nó như lạc loài nơi đất khách. Bởi nó mang theo một quan niệm chưa từng thấy ở xứ này: quan niệm cá nhân” (sđd). Cái “ngày thứ nhất” đó, theo tôi là ngày trên thi đàn Việt Nam xuất hiện hai ngôi sao chói sáng: Nguyễn Du và Hồ Xuân Hương. Trong mấy chục bài thơ tương truyền là của Hồ Xuân Hương, tôi đã may mắn tìm thấy một chữ tôi. Đấy là chữ tôi trong bài Ốc nhồi: Bác mẹ sinh ra phận ốc nhồi/ Đêm ngày lăn lóc đám cỏ hôi/ Quân tử có thương thì bóc yếm/ Xin đừng ngó ngoáy lỗ trôn tôi... Ý thức cá nhân ở Hồ Xuân Hương còn bộc lộ khá mạnh mẽ trong các bài thơ: Mời trầu, Tự tình, Quả mít, Hang Cắc Cớ, Đèo Ba Dội… Còn trong Truyện Kiều của Nguyễn Du, tôi đã thống kê được cả thảy 25 chữ tôi - một con số khá ấn tượng! Trong số 25 chữ tôi đó chỉ có 3 lần nhà thơ dùng với nghĩa danh từ. Một lần chữ tôi được Nguyễn Du dùng khá độc đáo: vừa là danh từ vừa là đại từ. Tất cả các trường hợp còn lại nhà thơ đều dùng với nghĩa đại từ nhân xưng. Có đến 6 nhân vật từng xưng tôi trong Truyện Kiều. Đó là: Thúy Kiều, Kim Trọng, Thúc Sinh, Hoạn Thư, gia nô của Hoạn Thư và hồn ma Đạm Tiên. Gia nô của Hoạn Thư nói với Kiều về việc Hoạn Thư nghe lén cuộc chuyện trò giữa Thúc Sinh và nàng Kiều ở Quan Âm các: Ngăn tôi đứng lại một bên/ Chán tai rồi mới bước lên trên lầu. Còn hồn ma Đạm Tiên nói với Kiều khi nàng đang “thiêm thiếp giấc vàng” trên chiếc bè của Vãi Giác Duyên: Rằng tôi đã có lòng chờ/ Mất công mười mấy năm thừa ở đây. Cho hồn ma Đạm Tiên và gia nô của Hoạn Thư xưng là điều khác thường trong văn học viết thời đại Nguyễn Du. Tuy nhiên, việc xưng tôi của hai nhân vật trên với sắc thái biểu cảm bình thường, trung tính, không có gì đáng bàn. Riêng cách xưng tôi của Thúc Sinh, Hoạn Thư, Kim Trọng và đặc biệt là Thúy Kiều đều ít nhiều thể hiện bản lĩnh và ý thức cá nhân của các nhân vật ấy.
|
Tranh của họa sĩ Ngọc Mai - Ảnh: internet |
Bây giờ ta thử điểm qua cách xưng tôi của ba nhân vật: Thúc Sinh, Hoạn Thư và Kim Trọng.
Chàng Thúc xưng tôi với viên quan xử vụ Thúc Ông kiện nàng Kiều:
Tại tôi hứng lấy một tay,
Để nàng cho đến nỗi này vì tôi.
Người đời chỉ thấy cái tính nhát gan của Thúc Sinh nhưng đã mấy ai đứng trước công đường dám nhận tội thay cho bị can như chàng? Cách xưng tôi với viên quan xử kiện, chứng tỏ chàng Thúc cũng chẳng phải tay vừa!
Vợ Thúc Sinh là Hoạn Thư còn ghê gớm hơn. Bị giải ra trước vành móng ngựa, mặc dù đã “hồn lạc phách xiêu”, Hoạn Thư vẫn đủ khôn ngoan để “lựa lời kêu ca”:
Rằng: tôi chút phận đàn bà
Ghen tuông thì cũng người ta thường tình
Hoạn Thư xưng tôi với Thúy Kiều - người đang ngồi uy nghi trên ghế chánh án. Đúng là “đàn bà dễ có mấy tay” như Hoạn Thư.
Chàng Kim Trọng, khi nghe Vương Ông kể lại việc Kiều phải bán mình chuộc cha đã vô cùng ân hận:
Rằng: Tôi trót quá chân ra,
Để cho đến nỗi trôi hoa dạt bèo.
Và chàng quyết tâm tìm bằng được người yêu:
Bao nhiêu của mấy ngày đàng,
Còn tôi, tôi một gặp nàng mới thôi!
Cách nói của chàng cũng phần nào thể hiện ý thức trách nhiệm của một đấng nam nhi trước số phận bất hạnh của Thúy Kiều.
Trong các nhân vật xưng tôi thì cái cách xưng tôi của nhân vật Thúy Kiều là đáng bàn hơn cả.
Chữ tôi xuất hiện lần thứ nhất trong Truyện Kiều nằm ở câu 704 (lúc nàng Kiều ngồi dưới ngọn đèn khuya, thổn thức nghĩ đến chàng Kim):
Phận dầu, dầu vậy cũng dầu,
Xót lòng đeo đẳng bấy lâu một lời!
Công trình kể biết mấy mươi.
Vì ta khăng khít, cho người dở dang.
Thề hoa chưa ráo chén vàng,
Lỗi thề thôi đã phụ phàng với hoa.
Trời Liêu non nước bao xa.
Nghĩ đâu rẽ cửa chia nhà tự tôi.
Câu Vì ta khăng khít, cho người dở dang là Kiều nói với chính mình, còn câu: Nghĩ đâu rẽ cửa chia nhà tự tôi là nàng đang nói với bóng hình Kim Trọng. Nếu Truyện Kiều được viết trước bài thơ Ốc nhồi thì chữ tôi này có thể là chữ tôi theo nghĩa đại từ nhân xưng xuất hiện lần đầu tiên trên thi đàn Việt Nam. Mặc dù mới xuất hiện nhưng nó không hề “bỡ ngỡ” chút nào, bởi Nguyễn Du đã đưa nó vào tác phẩm văn chương một cách hết sức tự nhiên, như lời ăn tiếng nói thường ngày. Với việc lựa chọn xưng tôi, nàng Kiều đã trở thành nàng Kiều của Nguyễn Du, nàng Kiều của Việt Nam chứ không còn là nàng Kiều của Thanh Tâm Tài Nhân bên Trung Quốc nữa. Nhà thơ đã để cho Thúy Kiều ý thức một cách sâu sắc về trách nhiệm cá nhân của mình đối với người yêu.
Khi Kiều sập bẫy, mụ Tú Bà đã đánh Kiều đến mức “uốn lưng thịt đổ, cất đầu máu sa”, nàng phải đau đớn xin mụ từ bỏ “chút lòng trinh bạch” của mình:
Rằng: Tôi chút phận đàn bà,
Nước non lìa cửa, lìa nhà, đến đây.
Bây giờ sống chết ở tay,
Thân này đã đến thế này thì thôi!
Nhưng tôi có sá chi tôi,
Phận tôi đành vậy, vốn người để đâu?
Thân lươn bao quản lấm đầu,
Chút lòng trinh bạch từ sau xin chừa!
Việc Kiều xưng tôi với mụ Tú Bà là hết sức bất ngờ. Xét về tuổi tác, địa vị mụ Tú là kẻ bề trên. Thông thường vào hoàn cảnh của Kiều, nàng phải xưng “con” mới đúng (như trong Kim Vân Kiều truyện). Với việc xứng tôi, Kiều đã đặt mình ngang hàng với mụ. Mặc dù nàng đang quằn quại bởi trận đòn hết sức tàn nhẫn nhưng trong cách xưng tôi, chứng tỏ nàng không hề che giấu thái độ coi thường đối với mụ. Đó là cái tôi đầy bản lĩnh của Kiều. Chữ tôi trong câu: Phận tôi đành vậy, vốn người để đâu? vừa là đại từ vừa là danh từ (có thể hiểu phận của tôi hay phận tôi đòi đều được).
Kiều xưng tôi với Thúc Sinh, khi chàng Thúc cố thuyết phục nàng làm vợ lẽ:
Bấy lâu khăng khít dải đồng,
Thêm người người cũng chia lòng riêng tây.
Vẻ chi chút phận bèo mây,
Làm cho bể ái khi đầy khi vơi.
Trăm điều ngang ngửa vì tôi,
Thân sau ai chịu tội trời ấy cho?
Bình thường, khi chuyện trò với Thúc Sinh, Kiều vẫn xưng thiếp: Đành thân phận thiếp ngại danh giá chàng… nhưng sao trong trường hợp này nàng lại xưng tôi? Phải chăng lúc này, tuy đang nói với Thúc Sinh nhưng Kiều lại nghĩ nhiều đến Hoạn Thư. Nàng sợ mình phá mất cái tổ ấm của người đàn bà đầy quyền lực ấy? Cách xưng hô tôi một lần nữa thể hiện ý thức cá nhân của Kiều trong việc tôn trọng hạnh phúc của người khác.
Còn đây là lời Thúy Kiều thuyết phục Thúc Sinh trở lại quê nhà thú thật với Hoạn Thư để tránh hậu họa về sau:
Đôi ta chút nghĩa đèo bòng,
Đến nhà trước liệu nói sòng cho minh.
Dù khi sóng gió bất bình,
Lớn ra uy lớn tôi đành phận tôi.
Câu: Lớn ra uy lớn tôi đành phận tôi, có thể hiểu theo nhiều cách khác nhau mà cách nào nghe cũng hợp tình, hợp lý. Nếu “lớn” là bà chủ (Hoạn Thư) thì phận tôi đòi đành thủ phận tôi đòi (Kiều). Nếu “lớn” là vợ cả (Hoạn Thư) thì tôi (Kiều) là vợ bé đành thủ phận vợ bé. Nếu xem chữ tôi đứng trước là đại từ nhân xưng, chữ tôi đứng sau là danh từ thì câu này còn có nghĩa: Hoạn Thư là vợ cả, tôi (Kiều) đành thủ phận làm kiếp tôi đòi. Thế mới biết cách chơi chữ “đồng âm, dị nghĩa” của Nguyễn Du tài tình đến mức nào!
Chỉ xét riêng về việc sử dụng chữ tôi theo nghĩa đại từ nhân xưng với tần số xuất hiện ấn tượng như thế, với ý thức cá nhân mạnh mẽ như thế, với cách chơi chữ biến hóa như thế (trong khi chữ tôi hầu như vắng bóng trong văn học Trung đại nước nhà), Truyện Kiều có thể được xem là một “ngoại lệ”. Và Nguyễn Du đúng là một “bậc kỳ tài”, một đại thi hào đi trước thời đại.
M.V.H
(SH304/06-14)
TRẦN HUYỀN SÂMTrong một nghiệp bút, hình như có tính quyết định bởi những cú sốc. Hoặc là cú sốc ái tình, hoặc là cú sốc chính trị, hoặc là sự thăng hoa của một miền ký ức nào đó ở tuổi hoa niên. Tiểu thuyết gia, chính trị gia Peru: Mario Vargas Llosa - người vừa được vinh danh giải Nobel văn học, dường như đã “chịu” cả ba cú sốc nói trên.
LTS: Thơ Haiku Nhật Bản thế kỷ XVII không dùng lối nói bóng gió, không tìm kiếm những nét tương đồng giữa “thế giới bên trong” của con người và hiện thực “bên ngoài” để tạo ra cầu nối giữa con người với thế giới, con người với con người. Haiku dùng những biểu tượng hàm súc ứ đầy thông tin và cảm giác để khắc họa con người trong nhất thể với thế giới. Đường thi cũng rất ít xuất hiện trường hợp dùng lối nói ẩn dụ, mà bộc lộ trực tiếp ý tưởng và ưa thích liên tưởng mà không cần viện tới cái tương đồng.
LGT: 1. Dịch giả, nhà phê bình Trần Thiện Đạo( sinh 1933) định cư ở Pháp từ thập niên 50. Sống hơn nửa thế kỷ ở Paris, Trần Thiện Đạo đã thâm ngấm sâu sắc ngôn ngữ và văn minh Pháp. Tuy nhiên, cảm thức cội nguồn vẫn luôn tiềm tàng trong tâm thức của một người trí thức sống lưu vong. Miệt mài, đam mê đến khổ hạnh, ông đã tạo lập một vị trí đặc biệt trong dòng đối lưu văn chương Pháp -Việt.
NGUYỄN THANH TÂM1. Thơ vốn dĩ là sản phẩm của đời sống tinh thần, là sự biểu hiện một cách tinh tế những diễn biến nội tâm của chủ thể sáng tạo. Ngôn từ vẫn luôn là chất liệu với nội lực biểu hiện vô song của nó. Các nhà thơ dù ở thời đại nào, trong môi trường văn hóa, lãnh thổ nào cũng không thể thoát ra khỏi sự ràng buộc tự nhiên của cái biểu đạt ấy để hướng tới cái được biểu đạt ẩn sâu sau những “lựa chọn” và “kết hợp” có giá trị mĩ học.
MAI VĂN HOANKỷ niệm 70 năm ngày mất Hàn Mặc Tử (11/11/1940 - 11/11/2010)Hàn Mặc Tử tên thật Nguyễn Trọng Trí, sinh năm 1912, mất năm 1940. Quê Lệ Mỹ, Đồng Hới, Quảng Bình. Tổ tiên họ Phạm, ông cố Phạm Nhương, ông nội Phạm Bồi, vì liên can quốc sự trốn vào Thừa Thiên đổi ra họ Nguyễn. Cha là Nguyễn Văn Toản, mẹ là Nguyễn Thị Duy.
PHONG LÊHôm nay theo tôi quan niệm là một thời gian khá dài, nếu tính từ khởi động của công cuộc Đổi mới với Đại hội Đảng lần thứ VI - 1986.
THÁI DOÃN HIỂUVì sao Nguyễn Du viết Truyện Kiều? Mục đích viết Kiều để làm gì?... là những câu hỏi bức bối trong suốt thời gian tôi còn làm ông giáo đứng trên bục giảng. Tôi đã viết một chuyên luận dài 200 trang để trả lời câu tự vấn trên. Dưới đây là bản tóm tắt ghi bằng thơ để bạn đọc dễ tiếp thu và ghi nhớ.
L.T.S: Tối 27-3-1984, tại Huế, giáo sư Xi-đô-rốp, ủy viên Ban chấp hành Hội Nhà văn Liên Xô, hiệu phó học viện Gooc-ki và là nhà lý luận Văn học nổi tiếng của Liên Xô, đã đến tham dự cuộc tọa đàm về các vấn đề văn học với các hội viên Hội Nhà văn Việt Nam ở Bình Trị Thiên. Sau đây là những ý kiến của giáo sư về các vấn đề đặt ra trong cuộc tọa đàm, qua lời phiên dịch của nhà thơ Bằng Việt, do Hoàng Phủ Ngọc Tường ghi lại.
MAI VĂN HOANTheo thần thoại Hy Lạp, vị thần đầu tiên xuất hiện trên thế gian là thần Ái tình. Thần Ái tình là một đứa bé có cánh với cây cung bên người, ngọn đuốc cầm tay mang tình yêu đến với những trái tim. Tình yêu - nguồn đề tài không bao giờ cạn của văn học nói chung và thơ ca nói riêng.
LƯƠNG ANNhớ có một bài thơ “nói láo” nào đó, khi kết thúc đã nói đến một điều không thể được là làm cho “mấy nàng công chúa phải say mê”. Bài thơ nói đúng với những chàng trai bất tài. Còn trường hợp có tài thì sự việc sẽ khác. Một câu chuyện tình trong đời của nhà thơ Nguyễn Hàm Ninh đã chứng minh điều đó.
TRẦN ĐÌNH SỬ1. Văn học - hiện thực là một trong bốn quan hệ cơ bản của văn học nghệ thuật
PHAN TUẤN ANH “Trên thực tế, mỗi người chỉ viết một cuốn sách. Chỗ khó là làm sao biết được cuốn sách nào đang được một người viết ra. Trong trường hợp của tôi, điều người ta nhắc đến thường xuyên nhiều hơn cả là cuốn sách về làng Macondo…” (G.G.Marquez).
NGUYỄN ĐỨC TÙNGNếu chiều mưa một cây đàn ghi-ta có ai cầm lên, ngân vài nốt nhạc, thời gian sẽ chậm lại, mọi người ngồi gần vào nhau, im lặng chờ nghe.
VÕ XUÂN TRANGỞ Bình Trị Thiên có hai câu hò cả nước đều biết, nhưng lâu nay được ghi theo nhiều cách khác nhau.
LÂM THỊ MỸ DẠQuá trình cảm thụ thế giới:Những tứ thơ tức là những yếu tố nội dung cấu trúc nên một tác phẩm thi ca. Nói rộng tức là những yếu tố làm nên thế giới thi ca của một nhà thơ.
PHẠM PHÚ PHONG(Nhân đọc Hai mươi nhà văn, nhà văn hoá Việt thế kỷ XX)
Cuộc đấu tranh chống tiêu cực đang là một mặt trận nóng bỏng trong cuộc sống hiện nay và việc viết về “đề tài chống tiêu cực” đang là vấn đề thời sự được không ít người viết, bạn đọc cũng như các cơ quan chỉ đạo văn nghệ quan tâm.
ĐỖ QUYÊNVài năm nay, người Việt ở khắp nơi, trong và cả ngoài văn giới, tranh luận rất nhiều về trào lưu Hậu hiện đại (Postmodernism) như một nan đề. Dù đồng ý hay không đồng ý với nó, ai cũng mong muốn cần đổi mới trong xu hướng văn chương của Việt Nam và mang tinh thần thế giới.
(Note sur les cendres des Tây Sơn dans la prison du Khám Đường, par Nguyễn Đình Hòe, B.A.V.H. 1914 p. 145-146)
INRASARA1. Lạm phát thơ, ra ngõ gặp nhà thơ, người người làm thơ nhà nhà làm thơ, thơ nhiều nhưng nhà thơ không có bao nhiêu… Đã thấy khắp nơi mọi người kêu như thế, từ hơn chục năm qua(1). Kêu, và bắt chước nhau kêu. Kêu, như thể một phát âm rỗng, vô nghĩa, hết cả sức nặng. Từ đó tạo thành thói quen kêu, nhàm và nhảm.