LÊ VŨ TRƯỜNG GIANG
Bút ký
Chỉ mấy ngày mưa dồn dập, trắng trời quê hương, tang thương lại gieo lên mảnh đất nghèo khó mỗi lần lũ về.
Thành phố Huế trong lũ lụt vừa qua. Ảnh Tấn Phong
Trận lũ lụt kinh hoàng năm 2020 này đã gây bao mất mát cho người dân miền Trung, vượt qua các mốc lịch sử. Người bạn vong niên Nguyễn Đức Hạnh (Thái Nguyên), đã viết lời ai điếu: “Mưa trắng trời khăn tang trắng đất/ Cơm mẹ nghèo chan nước mắt nuốt làm sao/ Đất lở màu đau/ Nước lũ màu tàn phá/ Chỉ đau thương có màu đỏ bầm”. Ai có thể quên được dòng nước lũ trắng xóa ở các tỉnh Quảng Nam, Thừa Thiên Huế, Quảng Trị, Quảng Bình, Hà Tĩnh trong cơn đau này. Nước mắt người khóc than cho số phận, khóc những cuộc chia ly hòa vào mưa, vào lũ, vào con sông oằn mình nghiêng ngả, vào con đập nham nhở, những ngọn đồi sạt lở thay hình đổi dạng. Miền Trung chỉ còn màu đỏ bầm của lũ, của dòng nước dữ cuốn trôi bao cảnh an bình, bao mảnh đời khốn khó, bao ước mơ chưa kịp xanh.
Kinh thành Huế, chìm trong biển nước, những cây xanh và những ngôi nhà, dãy phố bốn bề nước vây… trong tấm hình không ảnh mới thấy sự kinh hoàng của trận lũ lịch sử này. Cầu Trường Tiền bé nhỏ trong dòng nước bạc, cuồn cuộn chảy, chỉ còn nửa mét nữa nước cũng ngập lên cầu. Mưa rơi nặng hạt, mưa không ngừng nghỉ như có bao nhiêu nước trên trời dồn lại mưa một lần suốt dải đất miền Trung nghèo khó. Thừa Thiên Huế quê tôi là một trong những tỉnh hứng chịu đầu tiên và nặng nề của đợt bão rồi mưa lũ kéo dài.
Mưa trắng xóa quê hương. Rồi mưa xộc mái vào nhà, bụi nước bay khắp nơi, có bao nhiêu chậu ra kê ở những chỗ dột, chỗ thấm. Qua ngày 10/10 nước đã dâng qua bậc tam cấp, may có căn gác nhỏ nên cả nhà di chuyển những vật dụng cần thiết lên để dùng. Bây giờ nhà tôi và nhiều nhà trong xóm đã thành ốc đảo, nhìn thấy nhau mà không thể sang nhau. Những ngày ấy, nếu không có những người hàng xóm ở xóm Mỏ Giác có ghe thuyền đi lại, lâu lâu họ lại tiếp tế đồ ăn uống trong mưa, trong gió khi gói mỳ, đùm gạo, đồ ăn để qua những ngày dài mịt mùng. Nhớ hình ảnh cô Lếu chèo ghe mang đồ ăn gửi cho nhà tôi qua ô cửa sổ đầy lục bình chen chúc. Nhớ những giỏ đồ ăn treo trước cổng âm thầm mà tình nghĩa. Ở xóm đầu sông Vực, mệ Me 84 tuổi vừa mất, con cháu khóc than ơi hời. Mệ (bà) vừa mất thì nước vừa lên, ngập cả giường và chỗ khâm liệm mệ. Cuối cùng, người ta treo quan tài lên cửa sổ. Bà con xóm làng ai có ghe thuyền thì chèo đến viếng. Nước mưa chan nước mắt người dân lãm lũ quê tôi.
Giữa trời đất mịt mùng, mệ tôi ngồi lặng lẽ nhìn dòng nước lũ hung dữ, gửi trong gió mưa đôi câu hò mái nhì:
“Sóng sầm sịch, lưng chừng ngoài biển bắc
Giọt mưa tinh tăng ri rắc chốn hàng hiên
Em muốn làm lơ đi mà ngủ, ngủ cũng không yên
Sợ mưa già nước ngập, biết tựa con thuyền vào đâu”
Nỗi lòng ấy người dân vùng lũ bao đời nơm nớp, lo âu. Nhưng trận lũ có to biết mấy cũng không làm xói mòn được cái sống, giấc mơ và sự tồn tại, vươn lên của bấy nhiêu thế hệ.
Bao người nghẹn ngào trước hình ảnh anh Nguyễn Đắc Minh gào thét, quỳ lạy vật vã giữa cơn mưa trắng trời gọi vợ con, van xin ông trời trả lại người vợ đang mang thai bị lũ cuốn trôi ngày 12/10 ở xã Phong An, huyện Phong Điền. Nỗi đau thấu tận trời xanh. Chỉ trong tích tắc, âm dương cách biệt, anh cùng lúc mất hai người thân yêu. Ôi cơn đau kiệt cùng, bi thảm! Cả gia đình 6 người gồm cha mẹ và 4 con nhỏ ở xã Húc, huyện Hướng Hóa, tỉnh Quảng Trị bị núi sạt lở, chôn vùi không một ai sống sót. Nhìn những tấm chăn, chiếu đắp tạm trên thi thể cả gia đình đầy bùn đất, mưa đỏ, lòng quặn nhói. Hai cháu nhỏ là anh em ruột ở xã Thanh Thủy, huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình được gia đình đưa lên ghe đi tránh lũ bị lật, tử vong ngày 18/10. Nước chưa rút nên chưa thể an táng hai cháu, quan tài nổi bồng bềnh xa xót. Cha mẹ khóc hết nước mắt trước sự mất mát không thể bù đắp này. Thương quá thay!
Cả miền Trung suốt từ 6/10 cho đến những ngày cuối tháng toàn nhiều tin đau buồn. Mưa lũ kéo dài trên diện rộng đã gây ra những thiệt hại to lớn. Tối 25/10, Ban chỉ đạo Trung ương về phòng chống thiên tai có báo cáo nhanh tổng hợp tình hình thiệt hại do mưa lũ ở miền Trung kể từ ngày 6/10 đến nay. Chỉ trong gần 3 tuần, mưa lũ đã gây thiệt hại nặng nề khi khiến 130 người chết và 18 người mất tích. Quảng Trị tiếp tục là địa phương ghi nhận nhiều thiệt hại nhất về người với 50 người chết, 4 người mất tích. Tại Thừa Thiên Huế, 12 công nhân mất tích sau trận sạt lở đất ở thủy điện Rào Trăng 3 chưa được tìm thấy. Sau khi nước lũ rút, miền Trung có 885 ngôi nhà hư hỏng và 320 nhà đang bị ngập.
Ngành nông nghiệp ghi nhận thiệt hại nặng nề với hơn 1.400 ha lúa và 7.800 ha hoa màu bị ngập; hơn 7.000 con gia súc và 927.000 con gia cầm bị chết, cuốn trôi. Tuyến đường Hồ Chí Minh nhánh tây còn 16 điểm sạt lở. Nhiều đoạn ở quốc lộ 12C, 12A, 9C qua Quảng Bình vẫn hư hỏng. Tại Quảng Trị, lực lượng chức năng ghi nhận 11 điểm trên quốc lộ 15D bị cuốn trôi dài 5 m, phải xếp đá hộc để xe tải trọng nhỏ lưu thông. Tại Thừa Thiên Huế, quốc lộ 49 còn 6 điểm đang cấm ô tô, chỉ cho xe máy và người đi bộ lưu thông. Ngoài ra, mưa lũ làm 28 xã ở các tỉnh từ Hà Tĩnh đến Quảng Nam bị cắt điện.
*
Đau thương mất mát lớn nhất của Thừa Thiên Huế là sự cố tại thủy điện Rào Trăng 3 thuộc địa phận xã Phong Xuân, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế đã chôn vùi 17 công nhân thủy điện vào ngày 12/10 và đoàn cứu nạn gồm 13 thành viên trong sự cố lở đất tại trạm kiểm lâm 67 rạng sáng ngày 13/10. Chính quyền và quân đội huy động gần 1.000 người tham gia tìm kiếm cứu nạn người mất tích với hơn 200 xe cơ giới các loại ở khu vực thủy điện Rào Trăng 3. Cụ thể, Bộ Quốc phòng đã điều động 666 cán bộ, chiến sĩ và 119 trang bị, phương tiện các loại cùng ba chó nghiệp vụ. Tham gia tìm kiếm cứu nạn ở Rào Trăng 3, Bộ Công thương điều động 5 người và 2 máy phát điện công suất lớn, lực lượng tại địa phương là 312 người và 68 phương tiện các loại. Đến ngày 15/10, lực lượng tìm kiếm được huy động tối đa và đã tìm thấy toàn bộ 13 thi thể của cán bộ, chiến sĩ tham gia đoàn công tác thực hiện nhiệm vụ cứu nạn bị mất tích. Cho đến nay (26/10), lực lượng cứu hộ, cứu nạn tìm thấy được 5 thi thể công nhân trong số 17 người mất tích sau vụ sạt lở. Công an tỉnh Thừa Thiên Huế, lực lượng quân đội thuộc Quân khu 4 là lực lượng chủ chốt tham gia cứu nạn, bất kể gian nan vẫn nỗ lực tích cực tìm kiếm các công nhân bị mất tích. Khi tìm thấy được thi thể, bất chấp đêm tối, họ phải vượt qua chặng đường hàng chục km đường sông thác ghềnh, nguy hiểm, trời tối hạn chế tầm nhìn nhưng vẫn quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ mang thi thể các công nhân xấu số về cho người thân đang ngày đêm ngóng trông. Những ngày này, ở gần nhà tôi, gia đình em Ngô Viết Huy, sinh năm 1996, là một trong các công nhân bị mất tích chưa tìm thấy thi thể, trùm lên không khí ảm đạm, buồn bã. Cha mẹ, người thân mỏi ngóng tin em từ ngày 12/10 nhưng đến nay vẫn vô vọng. Bàn thờ đã lập cho em nghi ngút khói nhang. Người thân khóc cạn nước mắt.
Biết được thông tin về lễ viếng và truy điệu 13 cán bộ, chiến sĩ hy sinh trong khi làm nhiệm vụ cứu nạn, cứu hộ tại Thủy điện Rào Trăng 3 sẽ diễn ra vào sáng 18/10 tại nhà tang lễ Bệnh viện Quân y 268 (phường Thuận Lộc, thành phố Huế), tôi đến dự và tiễn đưa các anh. Tôi đến đã thấy đoàn người đông đúc, dài hàng km, đoàn người đông đúc, trật tự, thành kính xếp hàng vào viếng. Hàng trăm chiếc khăn tang phủ kín từ sân vào tận bên trong nhà tang lễ. Những người đồng đội nghiêm trang vây quanh 13 linh cữu phủ kín cờ Tổ quốc. Nhiều người mắt đỏ hoe, xót xa trước hình ảnh đau thương, mất mát lớn lao. Lần lượt từng nén nhang đốt lên, thắp lên bàn thờ các liệt sĩ, những giọt nước mắt lăn dài...
Một không khí u buồn nhuốm lên khu vực Trấn Bình Đài. Tôi nhớ mấy câu thơ anh Hoài Đức viết trước đó: “Mẹ sợ mất con nơi rừng núi mưa mù/ Chẳng gặp lại, biết thu nào gặp lại?” và sự thật đau lòng đó đã diễn ra giữa những ngày mưa lũ mịt mùng, bi ai. Trong ngày tang lễ, tôi gặp anh Trần Hoài, phóng viên thường trú của báo Quân đội nhân dân tại Bắc Trung Bộ. Anh bảo cả một tuần lăn lộn trên các vùng lũ và vào Rào Trăng 3. Có hôm đi cùng đoàn cứu nạn vào hiện trường anh bị sụt hố bùn sâu ngập gần hết chân, cũng may có các anh công binh đứng gần ứng cứu kịp thời. Trong lễ truy điệu, Trung tướng Nguyễn Doãn Anh, Tư lệnh Quân khu 4 - trưởng ban tang lễ, đọc điếu văn về những đồng đội hy sinh ở trạm 67 - những cán bộ, chiến sĩ đến phút cuối cùng vẫn sống vì dân: “Phẩm chất đạo đức và sự dũng cảm của các đồng chí luôn sống mãi trong tim của đồng đội và nhân dân. Xin kính cẩn nghiêng mình trước sự hy sinh cao cả của các chiến sĩ, giữ bình yên cho nhân dân”.
Tôi chưa bao giờ thấy một tang lễ nhiều quan tài như thế, những chiếc quan tài phủ lá cờ Tổ quốc, những bát nhang ngút hương khói và hàng trăm dải khăn tang buồn lặng lẽ. Bà con nhân dân đến viếng chắp tay nguyện cầu, hàng trăm giọt nước mắt lăn chảy trong giờ phút chia ly. Và những người lính lặng lẽ khóc, lặng lẽ gạt nước mắt tiễn đưa đồng đội mình trong một ngày Huế thật buồn. Những chị quân nhân đứng bên cạnh các mẹ, các chị là vợ, là mẹ các liệt sĩ vỗ về an ủi. Có chị ôm lấy mẹ bên bờ vai, có chị bế các cháu đang không ngừng gọi tên cha. Cảnh tượng cảm động ấy đập vào tâm trí tôi. Lần lượt từng chiếc quan tài được đưa ra, lên xe đưa tang của quân đội. Mỗi quan tài được đưa ra, những tướng lĩnh, đồng đội ghé tay nâng đưa tiễn một đoạn đường. Khi tiễn đồng đội mình, Thượng tá Ngô Nam Cường, Chỉ huy trưởng Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh tay đỡ quan tài, nước mắt chảy dài chào vĩnh biệt đồng đội!
Trong không khí đau buồn ấy, nhớ câu nói cuối cùng của Thiếu tướng Nguyễn Văn Man trong hình ảnh video cuối cùng vừa mới được công bố: “Việc thì gấp, vì nhiệm vụ, vì nhân dân chúng ta phải làm!” Tấm lòng và nghĩa cử của các anh nhân dân sẽ không bao giờ quên. Những chiếc xe lăn bánh ra khỏi bệnh viện 268, ra cửa chánh Bắc mang theo những tiếng khóc tiễn đưa. Nhà thơ Đoàn Văn Mật nghẹn ngào tiễn đưa những đồng đội mình qua đôi dòng bi tráng: “Xin cúi chào các anh những ngọn đèn trong bão giông không tắt/ những cuộc đời không bao giờ đánh mất lòng tin ở con người”. Các anh ngã xuống, “những ngọn đèn trong bão giông không tắt” vì ý chí, vì tinh thần đồng hành, tương trợ cùng người dân trong bão lũ. Thời bình không phải cảnh chinh chiến, nhưng còn hơn cảnh chiến chinh trước những mất mát to lớn này. Mưa lũ đã gây bao đau thương cho người dân bị nạn và những cán bộ, chiến sĩ hy sinh làm nhiệm vụ cứu nạn.
Mưa vẫn rơi không ngừng, mưa từ sáng đến chiều, mưa xuyên qua đêm, mưa mưa não nề, lê thê, mưa vô tình, mưa cuồng điên, mưa phá phách. Mưa lũ ngập đường, ngập nhà, ngập xóm, phố phường, công sở, trường học, đền đài, lăng tẩm, chùa chiền. Tất cả chìm trong biển nước, điêu tàn. Anh Nguyễn Quang Hàn viết những dòng cầu mong “xin mưa đừng rơi”:
“Quê nghèo ôi thương quá
Vất vả từ trong nôi
Mưa trắng cả núi đồi
Dân mình sao khổ thế”.
*
Lũ qua rồi, đi qua những xóm làng điêu tàn sau lũ, những đống quần áo nhầy nhụa bùn non được đem ra giặt vội. Ở nhiều hộ gia đình, toàn bộ đồ đạc, thóc gạo bị ướt ẩm hết. Những người phụ nữ giặt áo quần bên dòng nước đục ngầu phù sa. Nước máy vẫn chưa có, phải giặt không là mốc. Chú Phan Ngọc Văn (Quảng Phước, Quảng Điền), một người bà con của gia đình tôi, buồn bã kể rằng lúa nhà chú nước vào ngập cả. Nước lên nhanh quá, nhà chỉ có hai vợ chồng già, không thể cơi nới kịp thời, bà con xung quanh đều lâm vào tình trạng tương tự. Ở các xã Quảng Thọ, Quảng Thành, Quảng An, mưa lũ triền miên khiến rau màu chìm trong nước dài đều hư hỏng cả. Cây úng, đổ ngã la liệt giữa đồng, không thể thu hoạch được. Người nông dân đứng khóc trên cánh đồng tan hoang sau mưa lũ.
Những di tích lịch sử, từ quần thể di tích cố đô Huế, đến các di tích cấp quốc gia, cấp tỉnh, lũ lụt đã làm hư hại xuống cấp nhiều công trình. Những cửa hiệu hàng hóa chỉ toàn bùn đất, người chủ trẻ ứa nước mắt trước bao công sức gây dựng. Nhiều người sống tạm bợ trong ủy ban xã, trong trường học, nhà người thân, vì nhà họ lũ đã cuốn đi rồi. Thương cho các em học sinh ở vùng lũ, sách vở hoặc bị ngập rách nát hoặc bị lũ cuốn trôi. Trường lớp được dọn dẹp, các em đến trường và hành trang là tay không. Các cô giáo, các mạnh thường quân kêu gọi quyên góp sách vở, viết, áo quần cho các em đến lớp. Hàng ngàn chuyến xe chở nhu yếu phẩm nối nhau về miền Trung hỗ trợ. Đồng bào sống trong lũ không cô đơn vì đồng bào cả nước hướng về miền Trung với tất cả sự sẻ chia ấm áp nhất.
Trận lũ lụt kinh hoàng trong tháng 10 còn đó những thiệt hại, mất mát, những bộn bề, lo toan còn chưa giải quyết xong thì cơn bão số 9 (bão Molave), một cơn bão mạnh nhất trong vòng 20 năm qua với sức gió đạt cấp 14 (giật cấp 17 khi ở trên biển Đông) và khi đổ bộ vào đất liền cấp 10 - 11 (90 - 115 km/h), giật cấp 13. Trưa và đầu giờ chiều ngày 28/10, bão số 9 đã đổ bộ vào các tỉnh miền Trung với tâm bão nằm ở hai tỉnh Quảng Ngãi và Quảng Nam, đồng thời phạm vi ảnh hưởng các tỉnh từ Thừa Thiên Huế đến Phú Yên. Gió mưa quần thảo liên hồi từ đêm 27/10 cho đến giữa đêm 28/10. Ở trong nhà nghe tiếng rít ghê rợn, tiếng cây đổ, mái tôn bay vèo vèo, chợt thấy thân phận con người quá mong manh trước sức tàn phá của thiên tai. Bão tới, nước biển dâng, mưa to, lũ lại lên, người miền Trung lại gồng mình chống bão, chống lũ. Bão số 9 đã càng quét dữ dội và gây ra những hậu quả rất nặng nề. Theo báo cáo (tính đến ngày 1/11) của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NNPTNT) Nguyễn Xuân Cường - Phó trưởng Ban Thường trực Ban Chỉ đạo T.Ư về phòng chống thiên tai, bão số 9 làm 80 người chết, mất tích, trong đó, 45 người do sạt lở đất; 727 nhà bị sập hoàn toàn, ước thiệt hại khoảng 10.000 tỷ đồng cho 4 tỉnh miền Trung. Trong đó, nặng nhất là tỉnh Quảng Nam và tỉnh Quảng Ngãi. Thương tâm nhất là vụ sạt lở núi do ảnh hưởng của bão số 9 gây mưa to gió lớn vào tối ngày 28/10 tại 2 xã Trà Leng và Trà Vân (huyện Nam Trà My, Quảng Nam) đã vùi lấp nhiều ngôi nhà và khiến hàng chục người mất tích, đến nay một số nạn nhân vẫn chưa được tìm thấy. Miền Trung ơi! Một tháng quê hương mưa gào gió thét. Đôi tay trắng bàn tay sau thiên tai tới tấp thiên tai. Bao nhà đổ, bao người chết, bao lúa khoai ngô sắn... hóa bọt bèo, bùn đất. Lũ đã lên, bão đã tới, người miền Trung vén sương buồn nhìn về phía ngày mai.
*
Mỗi mùa mưa đến, tôi lại nhớ đứa em gái nhỏ xa quê thường vẫn hay hát bài “Mưa chiều miền Trung” da diết, sầu ai khi nhớ nhà. Hồng Xương Long có lẽ đã quá yêu thương vùng đất “trời hành cơn lụt mỗi năm” để viết nên lời ca từ đi vào lòng người: “Miền Trung nước lên/ đau lòng xa rồi người em/ ơi quê hương man mác buồn/ chiều miền Trung mưa tím bến sông”. Mưa về, bão tới, lũ dâng là điệp khúc lặp đi lặp lại tưởng chừng quen thuộc với người miền Trung, là thử thách với lòng kiên nhẫn sống chung bão lũ và như một thứ căn cước tự nhiên gắn trong từng thớ ký ức vừa để nhớ vừa muộn phiền, cay đắng.
L.V.T.G
(TCSH381/11-2020)
LÊ KHAI Bút kýAnh đưa tôi một tờ giấy cuộn tròn và nói: Tuần qua tôi đi tìm mộ liệt sĩ ở Truồi (huyện Phú Lộc). Tìm một mộ mà phát hiện ra tám mộ. Buồn! Tôi làm bài thơ. Anh xem và chữa giúp. Cả đời tôi chưa quen làm thơ. Anh chào tôi rồi vội vã về vì đang có việc cần.
HÀ KHÁNH LINH Trích Hồi ký… Mùa xuân 1967, địch tăng cường đánh phá suốt ngày đêm, ngày một ác liệt hơn. Các trạm khách dọc tuyến đường 559 không ngày nào không bị đánh trúng hoặc B52 hoặc bom tọa độ, hoặc pháo tầm xa. Ngày nào cũng có thương vong. Có những đơn vị trên đường hành quân vào Nam chưa đến địa điểm tập kết đã bị đánh tơi tả, chỉ còn sót lại vài người. Các cơ quan đơn vị đóng chung quanh khu vực phần nhiều đã bị đánh trúng.
TUỆ GIẢI NGUYỄN MẠNH QUÝ Tạp bútNhư nhân duyên, như định mệnh, cuộc đời tôi như thu hết vào trong một chung trà. Tuổi thơ đã qua, bây giờ và sẽ mãi mãi, cuộc đời tôi luôn vương vấn một hương trà. Tôi thường hay nói đùa cùng bằng hữu rằng sinh ra và lớn lên được ướp trong hương trà, tôi cũng chỉ mơ một ngày về thiên cổ được vẫy tiễn linh hồn bằng một chén trà ngon, được chôn theo cùng là một bộ ấm trà quý nhất và được vẫn cùng người “hồng nhan tri kỷ” đồng ẩm tương phùng ở thế giới bên kia!!!
TRẦN KIM HỒĐảo Cồn Cỏ là vọng gác tiền tiêu, là con mắt của Vĩnh Linh - khu Vĩnh Linh là tiền đồn của miền Bắc XHCN, là hậu phương trực tiếp của tiền tuyến lớn miền Nam; do đó đảo Cồn Cỏ có vị trí vô cùng quan trọng, mặc dù diện tích chỉ có 4km2. Mât Cồn Cỏ, miền Bắc XHCN trực tiếp bị uy hiếp, nhất là vào lúc nguỵ quyền Ngô Đình Diệm không ngớt hô hào lấp sông Bến Hải, Bắc tiến; đế quốc Mỹ từng trắng trợn tuyên bố biên giới Hoa kỳ kéo dài đến vĩ tuyến 17.
PHẠM NGUYÊN TƯỜNGHai cái máy lạnh hai cục trong căn phòng 40m2 của nhà hàng Hoa Chuối cộng với cả trận mưa chiều đột ngột tầm tã không làm dịu được sức nóng từ tấm thịnh tình của gần 50 cộng tác viên thân thuộc của tạp chí Sông Hương tại thủ đô Hà Nội.
TÔ VĨNH HÀTrong lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam, 60 năm qua là một chặng đường đặc biệt. Chưa bao giờ dân tộc ta phải đương đầu với nhiều thử thách đến như thế, phải chiến đấu và chiến thắng nhiều kẻ thù đến như thế. Pháp rồi Nhật, Tưởng và Anh; hết Mỹ đến Khơmer “đỏ”... Kẻ thù và đau khổ nhiều đến mức tưởng chừng như đất nước Việt Nam được tạo hoá sinh ra là để cho các loại kẻ thù nhòm ngó, tìm mọi cách thôn tính.
NGÔ MINHTừ tháng 7-1954, Hiệp định Giơnevơ ký kết cho đến cuối năm 1964 đôi bờ giới tuyến Hiền Lương lặng im tiếng súng, nhưng đây là 11 năm diễn ra cuộc đối đầu văn hóa nóng bỏng, quyết liệt nhất giữa ta và địch.
PHAN THỊ THU QUỲ Trên bờ Hương Giang êm đềm, có ngôi nhà nhỏ tôi được sinh ra ở đó. Hằng ngày tung tăng cắp sách đến trường Đồng Khánh, tôi cũng nhảy nhót trên bờ Hương Giang. Lớn lên tôi hoạt động nội thành thường đến hò hẹn bên cây phượng vỹ trước cửa Thượng Tứ, nơi đó là địa điểm giao nhận những “gói nhỏ”, để nhận công việc và để nhớ mật hiệu. Cho nên trên bờ Hương Giang tôi đã ngắm dòng sông thơ mộng với tôi gắn bó biết bao từ tuổi ấu thơ cho đến bước vào đời.
NGUYỄN VĂN VINH Bút ký Thôn Hiền An, xã Vinh Hiền là một thẻo đất cát bạch sa cuối phá Tam Giang phía Bắc vào. Như một ốc đảo ba bề, bốn bên là nước, nếu không có đường 49B chạy dọc phá đến cùng đường, tận biển. Và mỗi ngày, hai chuyến xe đò chở khách cùng mấy chục chuyến đò ngang phá qua lại Lộc Bình đem chút xôn xao thị tứ, phố chợ về với thôn, xã thì Hiền An càng xa xôi heo hút.
TRẦN HOÀI Ghi chépThung lũng A Lưới chạy dài theo hướng Bắc Nam đến vài chục km. Đó là một thung lũng đẹp, là một vị trí quân sự chiến lược, là nơi giao tranh ác liệt giữa ta và địch trong cuộc kháng chiến vừa qua...
LÊ BÁ ĐẢNGBạn của tôi rất nhiều. Năm ba bạn mà tôi nhắc nhở ra đây phần nhiều là bác sĩ, kỹ sư, giáo sư còn nghệ sĩ thì chất cả đống.
NGUYỄN THẾ QUANGMùa hạ, trời Bát Tam Boong trong xanh. Những hàng cây thốt nốt lặng lẽ kiêu hãnh xòa những tán lá xanh che mát cả khu đồi. Trong căn nhà của sở chỉ huy Sư 179 quân đội Cămpuchia, trung tá Nguyễn Văn Du chuyên gia của bộ đội Việt Nam cởi thắt lưng ra treo khẩu K54 lên vách. Anh vui mừng trước khả năng chiến đấu ngày càng tốt của quân đội bạn. Trận đánh trả lực lượng quân đội Thái Lan bảo vệ sáu nghìn dân tị nạn ở chòm Rumthumây diễn ra nhanh chóng.
TỐ HỮU Trích chương V, hồi ký Nhớ lại một thời
VÕ MẠNH LẬP Ghi chépTrong những ngày tháng ba, hai lẻ sáu trời Hà Nội đẹp và dễ chịu. Cái nắng vàng phủ tràn thành phố, tôn màu của cây thêm xanh biếc, ngói trên các mái nhà như thắm thêm lên, đường phố đi lại thanh thoát và đặc biệt có chút se lạnh vào sáng sớm như sợi tơ vương của hơi thở cuối mùa đông còn lưu sót lại.
NGUYỄN QUANG HÀ Bút kýMã Yên là tên trên bản đồ của một ngọn núi, còn dân địa phương thì gọi đó là núi Yên Ngựa. Núi Yên Ngựa là một trong những ngọn núi ngoài cùng về phía Đông của dãy Trường Sơn.
NGUYỄN QUANG HÀ Bút kýNắng chiều vàng trải dài trên những hàng bia trắng như mơ, như kỳ ảo. Đi trong nghĩa trang tôi có cảm giác mình như đang ngỡ ngàng, có cái gì đó nghèn nghẹn nơi cổ khi hàng hàng những bia trắng dài kia không có một nét mực ghi tên. Đó là những tấm bia vô danh.
NGUYỄN TRI TÂMNgười kể chuyện phải lục tìm những tấm ảnh lưu niệm để nhớ chính xác hơn. Sau tấm ảnh đen trắng cỡ 18x24, tướng Hoàng Văn Thái kí tên và ghi rõ “Thân tặng đồng chí trung tá Lương Văn Chính, người chiến sĩ Điện Biên năm xưa, huyện đội trưởng huyện đội Điện Biên. Kỉ niệm ngày lên thăm Điện Biên 3-4-1984”.
TẤN HOÀIHưởng ứng cuộc vận động học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí MinhĐêm đó, Bác nghỉ lại tại Cọt Mạ - một thị trấn nhỏ của Trung Quốc, thị trấn nhỏ như một bản miền núi miền nam Trung Quốc, có một cái chợ nhỏ, cách biên giới Việt Nam khoảng trên bốn cây số. Tất nhiên, đó là một cơ sở của cách mạng Trung quốc. Hôm sau, Bác về nước cùng với những đồng chí Việt Nam đi đón Bác trong đó có Dương Đại Lâm, Lê Quảng Ba, Bằng Giang. Những người này về sau trở thành cán bộ lãnh đạo của khu tự trị Việt Bắc. Bác về đúng vào tháng 2 năm 1941. Bác đã ghi trên một phiến đá trong hang Cốc Bó, nằm trong khu vực Pác Bó. Gia tài Bác chỉ có một chiếc va li cũ đan bằng mây, bên cạnh một chiếc máy đánh chữ mà Bác luôn luôn xách bằng tay.
HOÀNG QUỐC HẢI Bút kýVì sao khi Lý Công Uẩn (Lý Thái Tổ) được nước, cung điện nơi thành Hoa Lư các vua Đinh, vua Lê dựng như “điện Bách Bao thiên tuế, cột điện dát vàng, dát bạc làm nơi coi chầu, bên đông là điện Phong Lưu, bên tây là điện Cực Lạc, rồi làm lầu Đại Vân, dựng điện Trường Xuân làm nơi vua ngủ, bên cạnh điện Trường Xuân lại dựng điện Long Lộc, lợp bằng ngói bạc...”, lâu đài điện các như thế, tưởng đã đến cùng xa cực xỉ.
JEAN-CLAUDE GUILLEBAUDLà một nhà báo - nhà văn Pháp thuộc “thế hệ Việt Nam”, thế hệ những người Pháp mà dấu ấn của cuộc chiến Đông Dương đã và sẽ in đậm trong suốt cuộc đời. Ông có mặt ở Việt Nam vào nhiều mốc lịch sử trước 1975, và từ đó ý định trở lại đất nước Việt Nam vẫn luôn thôi thúc ông. Cuốn “Cồn Tiên” được viết sau chuyến đi Việt Nam từ Nam chí Bắc của ông năm 1992. Bản Công-xéc-tô vĩnh biệt này, có thể nói, nó là nỗi ám ảnh của người pháp về Điện Biên Phủ ở Việt Nam. Hiện Guillebaud đang công tác tại Nhà Xuất bản Le Seuil (Paris).