NHƯ MÂY
Chiều 14/8/2016 không gian thơ nhạc bỗng trải rộng vô cùng ở Huế. Hàng trăm độc giả mến mộ thơ Du Tử Lê và bạn bè văn nghệ sĩ từ các tỉnh Kiên Giang, Đắk Lắk, Quảng Nam, Quảng Trị, Đà Nẵng, Hà Nội đã về bên sông Hương cùng hội ngộ với nhà thơ Du Tử Lê.
Nhà văn Hồ Đăng Thanh Ngọc tặng hoa cho nhà thơ Du Tử Lê. (Ảnh Nguyễn Ngọc Hạnh)
Cuộc giao lưu “Du Tử Lê và bằng hữu” ngập tràn cảm xúc này do Tạp chí Sông Hương, Hội Nhà văn Thừa Thiên Huế tổ chức, kết nối những tâm hồn thơ Việt ở hai bờ Thái Bình Dương.
Nhiều thế hệ yêu thơ đã có mặt trong khán phòng Cà phê sách Phương Nam để được nghe lại những bài thơ, những ca khúc phổ nhạc từ thơ Du Tử Lê; được nghe nhà thơ nói chuyện thơ, nghe “chàng rể Huế” kể chuyện tình với Huế…
Nhà thơ Du Tử Lê sinh năm 1942, làm thơ từ năm 1953 và đã có thơ in trên các báo thời đó ở Hà Nội. Bút hiệu Du Tử Lê được dùng chính thức từ năm 1958 trên tạp chí Mai. Ông đã xuất bản trên 70 tác phẩm, trong đó các năm 2014, 2015 tập thơ “Giỏ hoa thời mới lớn” và tập Tùy bút chọn lọc của Du Tử Lê đã xuất bản ở Việt Nam. Từ năm 1981 đến nay, ông có nhiều buổi thuyết trình tại các trường đại học ở Mỹ, Pháp, Đức, Úc… Những năm 1990 về sau, thơ ông được một số đại học nước ngoài dùng để giảng dạy cho sinh viên. Du Tử Lê là một trong 6 nhà thơ Việt Nam thuộc thế kỷ 20 có thơ được chọn in trong tuyển tập “Thi ca Thế giới từ thượng cổ tới hôm nay” (World Poetry - An Anthology of Verse from Antiquyty to Our Time” do nhà xuất bản W.W Norton New York ấn hành năm 1998)... Ngoài ra, nhà thơ tài danh này còn vẽ tranh, chỉ riêng năm 2012 ông đã có 4 cuộc triển lãm cá nhân tại Houstan, Seattle, Virginia, Atlanta (Mỹ).
![]() |
Đông đảo công chúng đến với cuộc giao lưu. (Ảnh Bảo Hòa) |
|
Nhà thơ Du Tử Lê ký tặng sách cho người hâm mộ |
![]() |
Ca sĩ Dạ Thảo say đắm thể hiện bài Khúc thụy du. (Ảnh Bảo Hòa) |
Buổi giao lưu bắt đầu. Một số tác phẩm tiêu biểu như Khúc Thụy Du, Quê hương là người đó, Trên ngọn tình sầu… do các nhạc sĩ Phạm Đình Chương, Anh Bằng, Từ Công Phụng phổ nhạc và bài thơ Ai nhớ ngàn năm một ngón tay được cất lên đầy xúc động qua những giọng ca của các ca sĩ Dạ Thảo, Hữu Quang, Minh Tùng. Thơ Du Tử Lê được phổ nhạc rất nhiều, các nhạc sĩ danh tiếng như Phạm Duy, Phạm Đình Chương, Anh Bằng, Từ Công Phụng, Đăng Khánh, Trần Duy Đức, Khang Thụy… đều có những ca khúc phổ thơ Du Tử Lê. Trong đó “Khúc Thụy Du” do nhạc sĩ Anh Bằng phổ thơ Du Tử Lê được xem là một trong những bản tình ca hay nhất.
Gần như mang một mối cảm xúc dâng tràn, ca sĩ Dạ Thảo đã thể hiện rất hay chiều sâu thẳm của các ca khúc, đặc biệt là “Khúc Thụy Du”… Như thể Dạ Thảo không chỉ hát, mà đang là người trong cuộc kể lại câu chuyện tình Thụy Du. Điều đó đã làm cho công chúng liên tưởng đến những bài thơ tình của Du Tử Lê. Trong hàng trăm bài thơ của ông, thơ tình vẫn trội hơn cả như thể đó chính máu huyết nhà thơ, với nỗi say đắm tận cùng… Nhiều khi, tình yêu đã vượt qua câu chuyện riêng tư, để trở thành câu chuyện của quê hương…
Phần giao lưu thật sự đã đem lại cho công chúng nhiều cảm xúc. 40 năm mới gặp lại bạn thơ cùng thế hệ, nhà văn Bửu Ý không khỏi ngỡ ngàng: “Đây là một cuộc gặp gỡ sang trọng, trong một không gian sang trọng. Một không gian không phải sang trọng vì có những thứ đắt tiền, mà ở chỗ trong không gian này đang ngưng lại, dồn lại biết bao kỷ niệm. Sang trọng bởi có những người yêu văn chương cùng ngồi lại. Một không gian mà tôi được gặp lại những người làm văn nghệ của một thời chỉ hùng hục viết, hùng hục gặp gỡ mà không thấy khổ, dẫu có lúc cơm cũng không có ăn”. Gần như thời gian suốt mấy mươi năm được dồn nén lại trong nỗi xúc động của nhà văn Bửu Ý, và người ta nhận ra cảm xúc cũng đang dâng lên trong mắt người bạn Du Tử Lê: “Gặp nhà thơ Du Tử Lê cười với tôi một cái thì tôi thấy lạ, bởi nụ cười này rất quen, mình gặp cách đây 40 năm rồi mà, giờ mới gặp lại. Cười với nụ cười thân quen khiến bao nhiêu thời gian, bao nhiêu không gian như xóa nhòa. Gặp lại Du Tử Lê không chỉ gặp lại Du Tử Lê đâu, gặp lại Du Tử Lê là gặp lại bao nhiêu thời gian dồn ứ lại, gặp lại không biết bao nhiêu con người thông qua hình bóng của anh. Tôi cứ nghĩ rằng chúng tôi tưởng chừng như không thể gặp nhau...”.
Nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo cũng đã từ Hà Nội về Huế tham dự cuộc giao lưu, nhà thơ kể lại nhiều kỷ niệm giữa anh và Du Tử Lê, trong đó có chuyện hai nhà thơ gặp nhau lần đầu ở Huế. Và anh chia sẻ: “Thơ Du Tử Lê mãi mãi trẻ, trẻ từ khi anh mới bắt đầu làm thơ cho đến tận bây giờ. Anh luôn giữ được sự ngạc nhiên trong con người mình, tâm hồn anh không khi nào già đi và anh cứ viết, viết mãi…”.
Nhà nghiên cứu văn học Bửu Nam phát biểu khá dài, phân tích cái hay, những cách tân trong thơ Du Tử Lê, đặc biệt nhấn mạnh đến một kỹ thuật chấm, phết, gạch chéo cắt lìa nghĩa chữ, xô dạt thành những lớp nghĩa khác nhau, khiến không gian thơ Du Tử Lê luôn mới lạ. Nhà nghiên cứu Bửu Nam chia sẻ: “Sự nghiệp thơ ca của Du Tử Lê bắt đầu từ năm 16 tuổi cho đến nay đã 74 tuổi, với 56 năm đi đến tận cùng những nỗ lực của thi ca, thơ Du Tử Lê cũng gần như đi đến tận cùng với những triết lý sâu sắc của cuộc đời. Nhân cuộc giao lưu này, tôi cũng mong muốn nhiều nghệ sĩ phương xa trở về với Huế hơn nữa để bạn bè và người yêu văn nghệ có thể giao lưu gặp gỡ nhau nhiều hơn”.
Nhà thơ Du Tử Lê đang sống và sáng tác tại miền nam California (Mỹ). Cuộc hội ngộ này là cơ hội hiếm hoi của bạn đọc yêu thơ ông và để nhà thơ có dịp trở về quá khứ đong đầy kỷ niệm. Trước nhiều câu hỏi tò mò về những nàng thơ đi qua cuộc đời, nhà thơ Du Tử Lê rất thực: “Tôi đã trải qua nhiều cuộc tình, rất nhiều khổ đau, rất nhiều đổ vỡ và tôi phải cảm ơn Huế vì đã cho tôi một người bạn đời, một người bạn đường không thể tuyệt vời hơn là vợ tôi… Phải nói thêm rằng, để làm thơ thì không phải ngồi đếm bao nhiêu nàng thơ, bao nhiêu cuộc tình mà phải tính bằng những khổ đau trong cuộc tình đó. Và khổ đau thì ai cũng muốn quên đi”.
Những khổ đau mà nhà thơ muốn quên lại là những điều khiến bạn đọc luôn nhớ mãi về ông. Đó là khổ đau sau những lần biệt ly với người yêu, với quê hương, phải đối diện với những giằng xé trước cái chết, trước bệnh tật…
Du Tử Lê bày tỏ, bên cạnh những tác phẩm được công nhận, ông cũng có những tác phẩm, những câu từ sáng tạo đang còn gây tranh cãi mà ông muốn nói để bạn đọc hiểu ông hơn. Do đó, ông đã dành thời gian giải thích ý nghĩa cách sử dụng từ, cách ngắt câu, cách tách từ để tạo nên những hiệu ứng thi ca mới.
Trong không gian ấm áp, câu chuyện tình giữa Du Tử Lê và chị Hạnh Tuyền, vợ của anh bây giờ, được khơi gợi. Năm 1972, ông về Huế tìm người đẹp Hạnh Tuyền đã thư từ qua lại với nhà thơ trước đó, bấy giờ đang là sinh viên năm 2 Đại học Sư phạm Huế. - “Huế lúc đó là một Cố đô quyến rũ, cảnh quan và sinh hoạt của dân chúng khác hẳn với những nơi trước đó tôi đến. Lần đầu gặp Hạnh Tuyền, nghe cô nữ sinh này nói chuyện với bạn gái mà cứ như nghe tiếng một đàn chim đang ríu rít” - Ông nhớ lại và nở nụ cười. Hồi đó ông theo Hạnh Tuyền về biển Thuận An và xúc cảm sáng tác bài thơ “Khi ở cửa Thuận An”. Yêu nhau 3 năm, sau đó ông định cư ở Mỹ, xa cách người yêu. Phải đến năm 1992 ông mới có thông tin về Hạnh Tuyền, ông lập tức bay về Việt Nam tìm chị. Ông theo Hạnh Tuyền ra Huế, và từ đó chính thức làm chàng rể xứ Huế. Sống với Hạnh Tuyền, ông có những bài thơ làm bằng giọng/tiếng Huế “đặc sệt”. Nhiều bài thơ của ông viết về Huế, không có nơi chốn địa chỉ, nhưng phảng phất một Huế âm trầm, da diết. Những bài thơ như “Dòng suối trăm năm”, “Đừng nữa nhé chia lìa” là cảm giác gắn kết Huế thường trực trong tâm khảm nhà thơ. Trong thời gian ông và Hạnh Tuyền xa nhau, ông hướng về tình yêu của mình với người đẹp Huế qua bài thơ “Quê hương là người đó” đã được Phạm Đình Chương phổ nhạc…
Chàng rể Huế Du Tử Lê cảm động: “Rất cảm ơn và tri ân các bằng hữu và người yêu thơ đã tổ chức cho tôi buổi gặp mặt hôm nay. Dù không sinh ra ở Huế, nhưng một nửa của tôi đã gắn bó với Huế. Trong những bài thơ tôi viết, Huế cũng chiếm phần nhiều, nhất là phương ngữ Huế cũng đã được tôi đưa vào thơ, như tri ân một vùng đất giàu tình nghĩa, đôn hậu và dịu dàng…”. Một bạn đọc đề nghị ông đọc một bài thơ ông đã viết bằng giọng Huế, Du Tử Lê cười hóm hỉnh: “Tôi chẳng thể thuộc thơ của bản thân mình, và nếu tôi đọc thơ của tôi bằng giọng Huế thì tôi rất xin lỗi, bởi nó sẽ chẳng là Huế nữa.”
Đối với Du Tử Lê, tiếng Huế là một ngôn ngữ thơ mộng và đẹp, nếu mang chữ vào trang giấy sẽ có sự réo rắt riêng của nó. Ngôn ngữ Huế rất phong phú và cần phải hiểu được âm ngữ của Huế bằng chính giọng Huế. Ông nói ông không chịu được khi thấy người ta giả giọng Huế. Đó là một ngôn ngữ sang trọng, không đùa được…
Hai MC của buổi giao lưu là hai nhà thơ Đông Hà, Lê Vĩnh Thái, cũng là hai Phó Chủ tịch Hội Nhà văn Thừa Thiên Huế, đã dẫn dắt câu chuyện hết sức sinh động. Ngoài kia sông Hương êm đềm trôi, như bao nhiêu nước đã chảy qua cầu, như một ý trong phát biểu của Tổng biên tập Tạp chí Sông Hương - nhà văn Hồ Đăng Thanh Ngọc: “Đây là buổi chiều hội ngộ đặc biệt mà chúng ta sẽ có cơ hội được gặp gỡ sau bao xa cách, có dịp cùng hồi nhớ lại những gì đã qua, đem lại cho nhau những cảm xúc nghệ thuật… Đây sẽ là một buổi chiều đáng nhớ”…
N.M
(SHSDB22/09-2016)
NGUYỄN PHÚC VĨNH BATrong cuốn “Hồ sơ văn hoá Mỹ”, nhà nghiên cứu Hữu Ngọc có giới thiệu một số nhà thơ cổ điển Mỹ như Walt Whitman, Edgar A. Poe, Henri W. Longfellow… Về Longfellow, ông Hữu Ngọc viết:“Nếu không đòi hỏi tâm lí và tư duy sâu sắc thì có thể tìm ở thơ Longfellow sự trong sáng, giản dị, cảm xúc nhẹ nhàng, bâng khuâng, hình ảnh duyên dáng và âm điệu du dương. Ông làm thơ về lịch sử và truyền thuyết, đất nước và thiên nhiên, ông ca ngợi tình thương, lòng tốt, chịu đựng cuộc đời.
LÊ HUỲNH LÂMTừ “Vọng sông quê” đến “Mang” của Nhà xuất bản Trẻ, rồi “Gửi thiên thần” của Nhà xuất bản CAND và bây giờ là “Đồng hồ một kim” của Nhà xuất bản Văn Học” được gửi đến bạn đọc, Phan Trung Thành đã khẳng định được gương mặt thơ của thế hệ 7.X. Ở đây, số lượng tác phẩm không định hình nên một gương mặt thơ, mà chính những câu chữ đã vẽ lên chân dung một nhà thơ.
TIỂU VĂNGiữa tháng 11 năm 2008, tôi được dự một buổi hội thảo nói chuyện chuyên đề về sách tại Zen Café (phố Ngọc Hà). Đây là buổi nói chuyện của tác giả - dịch giả Lê Thị Hiệu, với bút danh thường gọi là Hiệu Constant, giới thiệu về tác phẩm đầu tay của chị - tiểu thuyết Côn trùng. Buổi nói chuyện nằm trong chương trình “Tôn vinh Văn hóa Đọc” do Công ty Truyền thông Hà Thế khởi xướng và tổ chức.
HÀ KHÁNH LINHHồng Nhu truyện ngắn, Hồng Nhu thơ… Lần đầu tiên nhìn thấy Hồng Nhu xuất hiện tiểu thuyết tôi thực lòng rất mừng. Tuy nhiên đọc gần hết hai chương đầu nỗi lo cứ cồm cộm lên trong tâm thức nhưng chính gần cuối chương II cái chất tiểu thuyết mới bắt đầu hé lộ ra, để rồi từ đó lôi cuốn người đọc cho đến hết truyện.
LÊ QUANG TƯCông trình Văn học Việt Nam thế kỷ X-XIX (những vấn đề lý luận và lịch sử)(1) được biên soạn bởi Trần Ngọc Vương (chủ biên), Trần Nho Thìn, Nguyễn Văn Thịnh, Trần Nghĩa, Đoàn Lê Giang, Kiều Thu Hoạch, Cao Tự Thanh..., do nhà xuất bản Giáo dục in năm 2007, dày 912 trang.
LÝ HOÀI XUÂN(Nhân đọc tập thơ “Mẹ!” của Văn Lợi – NXB Thuận Hoá, 2006)
TRẦN HUYỀN SÂMNhư con thú hoang ôm vết thương lòng đi tìm nơi trú ẩn, gương mặt người thiếu phụ mang nỗi buồn tiền kiếp - tự ngàn xưa: Người thiếu phụ có đôi mắt buồnĐi lang thang trong chiều mùa hạNỗi cô đơn lây sang cả đá...
MAI VĂN HOANNgười đời thì lập ngôn còn Nhụy Nguyên thì “lập thiền”. Thú thực tôi chưa hiểu hết dụng ý của Nhụy Nguyên khi đặt tên cho tập thơ đầu tay của mình là Lập thiền. Bản thân từ Hán Việt vốn ẩn chứa nhiều tầng nghĩa.
BỬU NAMI. Văn học Mêhicô ở thế kỷ XX, có lẽ được xem như một nền văn học năng động và sáng tạo nhất Châu Mỹ La tinh. Táo bạo trong những tìm tòi mới, linh hoạt uyển chuyển trong cách diễn tả, đa dạng phong phú trong cách sử dụng các cấp độ ngôn ngữ, sáng suốt trong cách chọn lựa đề tài, hình thức, ngôn ngữ: tiểu thuyết và truyện ngắn ở Mêhicô tạo được những không gian sáng tạo và đổi mới một cách tự do.
NGUYỄN TÝ51 bài thơ cùng 8 ca khúc được phổ thơ của Trần Hữu Lục vỏn vẹn 120 trang qua tập thơ “Vạn Xuân” (*) mới nhất của anh, người đọc đồng cảm cùng tác giả- một người con xứ Huế tha phương.
NGÔ MINHNhà xuất bản Văn nghệ vừa ấn hành tập ký “Phùng Quán- Ba phút sự thật”, tập hợp mười lăm bài viết, ký thấm đẫm chất nhân văn rất của cố nhà thơ nổi tiếng Phùng Quán.
NGUYỄN ĐÔNG HIẾUTrong cuộc đời làm xuất bản của mình, Phùng Quán là một nhà văn đã để lại cho tôi những ấn tượng mạnh mẽ, sâu sắc, khó quên.
PHẠM PHÚ PHONG Tập nhật ký Tây tiến viễn chinh (do Đặng Vương Hưng biên soạn và giới thiệu, Phạm Tiến Duật viết lời bạt, Nxb Hội Nhà văn, 2005) của liệt sĩ Trần Duy Chiến, bắt đầu viết từ ngày 7.10.1978, khi anh mới nhập ngũ, đến ngày 25.6.1980, trước khi anh hy sinh gần một tháng.
BỬU NAM giới thiệu1. Cuốn tiểu thuyết best - seller “Hồi ức của một Geisha” của nhà văn Arthur Golden vừa được dựng thành phim. Nhà văn Arthur Golden đã dành cả 40 năm cuộc đời mình tìm tư liệu về cuộc sống của những nàng Geisha ở Nhật Bản, để sáng tạo nên một cuốn tiểu thuyết Best - Seller giữ vị trí được bạn đọc thế giới yêu thích lâu dài trên danh mục những tiểu thuyết bán chạy nhất do báo New York Times bình chọn.
HOÀNG VŨ THUẬT(Đọc tập thơ Lệ Thuỷ mút mùa của Ngô Minh)Nói đến Ngô Minh là nói đến thế - giới - cát. Cát trong suy nghĩ của Ngô Minh như thứ ngôn ngữ minh triết về đời sống con người. Là vật chất, nhưng không giản đơn như mọi thứ vật chất. Cát có thể nóng như lửa, lại mềm mại dịu êm dưới chân người. Li ti từng hạt nhỏ, vậy mà bên nhau cát xây nên luỹ nên thành án ngữ dọc biển bờ Tổ quốc. Cát hiền lành trong sạch, khi giận giữ có thể biến thành những cơn bão khủng khiếp.
BÙI ĐỨC VINH(Nhân đọc tập thơ “RỖNG NGỰC” của Phan Huyền Thư, NXB Văn học 2005)
PHAN THUẬN AN"Khóc Bằng phi" hay "Khóc Thị Bằng" là một bài thơ nổi tiếng xưa nay, nhưng tác giả của nó là ai thì chưa được xác minh một cách cụ thể. Người ta thường cho rằng bài thơ trữ tình này là do vua Tự Đức (1848-1883) làm ra để thương tiếc một bà cung phi tên là Thị Bằng còn rất trẻ đẹp nhưng chết sớm.
HÀ VĂN LƯỠNGTrong văn học Nga thế kỷ XX, Aleksandr Solzhenitsyn là một trong những nhà văn lớn, nổi tiếng có nhiều đóng góp cho nền văn học Nga trên nhiều phương diện, một người suốt đời tận tụy và kiên trì đấu tranh cho sự chiến thắng của nghệ thuật, của sự thật đối với những cái xấu, cái ác. Nhưng ông cũng là một nhà văn có cuộc đời đầy thăng trầm, bất hạnh và phức tạp.
BÙI LINH CHIAnnemarie Selinko (1914-1986) là một nhà báo, nhà tiểu thuyết gặt hái được một số thành công trong sự nghiệp tại Tổ quốc của mình là nước Áo. Trong những tháng ngày chạy nạn 1943, bà đã cùng chồng đến Thụy Điển, đã chứng kiến những làn sóng người tị nạn phải rời bỏ quê hương trước ý chí ghê gớm của kẻ độc tài khát máu Himler gây ra.
TRẦN HUYỀN SÂM1. Nobel là một giải thưởng danh giá nhất, nhưng cũng chứa đựng nhiều nghịch lý nhất trong tất cả các giải thưởng. Riêng giải Nobel văn học, bao giờ cũng gây tranh cãi thú vị. Bởi vì, Hội đồng Viện Hàn Lâm Thụy Điển phải trung thành với lời di chúc của Alffred Nobel: trao tặng giải thưởng cho người sáng tạo ra tác phẩm văn học xuất sắc nhất, có khả năng định hướng lý tưởng cho nhân loại.