NGUYỄN DƯ
Hôm ấy bạn bè họp mặt ăn uống. Chuyện nổ như bắp rang. Tôi khoe mình đã từng ba lần đội trời đạp đất trên đỉnh đèo Hải Vân. Một bạn hỏi đèo Hải Vân có gì đặc biệt? Câu hỏi bất ngờ làm tôi cụt hứng. Ừ nhỉ… đèo Hải Vân có gì đặc biệt?
Vịnh Chân Mây - Ảnh: internet
Thú thực là lần nào qua đèo cũng chỉ hồi hộp nhìn xe cộ chơi rồng rắn. Dốc dài và cao. Trên lao xuống, dưới bò lên. Lách ra, táp vào. Còi hét, đèn chớp. Du khách lo sợ bám chặt thành ghế. Đúng là Đi bộ thì sợ Hải Vân.
Rồi xe cũng lên tới đỉnh. An toàn! Mời bà con nghỉ giải lao.
Chân vừa chạm đất, mắt đã phải lấm lét tìm chỗ để giải quyết… chuyện cấp bách. Nhẹ bụng. Tỉnh trí. Sực nhớ phải tận dụng khoảnh khắc còn lại để thở hít không khí mát mẻ, co duỗi chân tay. Chụp một tấm ảnh kỉ niệm. Vừa tầm bác tài giục mọi người lên xe.
Vậy là biết đèo Hải Vân rồi!
Năm ngoái chúng tôi được anh bạn ở Đà Nẵng rủ đi chơi Huế bằng xe nhà. Tha hồ la cà đó đây. Thích đâu ngừng đấy.
Đường vắng xe. Phần lớn xe khách, xe tải bây giờ thích đi đường hầm chui qua núi. Vừa nhanh chóng vừa an toàn hơn đường dốc.
Lần này mới được ngắm cảnh. Được ngồi trong mây uống cà phê trên đỉnh đèo. Được sờ mó Thiên hạ đệ nhất hùng quan. Được thấy xóm làng. Được nghe văng vẳng tiếng chuông, mõ.
Lần này xe đi đường nhỏ, uốn lượn men theo vụng biển. Ghé Cảnh Dương ăn trưa. Thưởng thức hải sản tươi sống 100%. Ăn xong, có võng nằm thư giãn.
Cảnh Dương chưa có tên trong chương trình thăm viếng của các tuyến du lịch. Chưa trở thành “bãi biển đẹp nhất Đông Nam Á”. Nhờ vậy mà thiên nhiên nơi đây còn… dễ thương.
Làng chài sinh hoạt lặng lẽ, bình thường. Hàng quán chưa bắt mọi người phải nghe nhạc đinh tai nhức óc. Bãi cát mênh mông, trải dài trước mặt.
- Chỗ núi nhô ra biển kia là Mũi Chân Mây.
Chân Mây! Nhà thơ nào đã tức cảnh sinh tình, khéo đặt tên cho vùng trời mây non nước? Chân mây cuối trời. Bóng nước chân mây… Thiên nhiên đẹp, buồn man mác. Chân Mây gợi nhớ xa xôi.
“Gìn vàng giữ ngọc cho hay
Cho đành lòng kẻ chân mây cuối trời”
(Kiều)
“Nỗi lòng biết ngỏ cùng ai?
Thiếp trong cánh cửa, chàng ngoài chân mây”
(Chinh phụ ngâm)
“Chân mây mặt cỏ rầu rầu,
Càng trông cố quốc mạch sầu càng thương!”
(Trần Tuấn Khải)
Cả năm trời đã trôi qua mà vẫn còn nhớ bữa ăn tại Cảnh Dương. Nhớ Chân Mây thơ mộng. Nhớ quá hóa… tò mò muốn tìm hiểu thêm vùng đất này.
Chân Mây ngày nay thỉnh thoảng được sách báo nhắc đến vì có nhiều tiềm năng kinh tế, du lịch. Thực dân Pháp ngày xưa cũng đã từng để ý đến Chân Mây vì mục đích chiến lược quân sự.
Cho đến cuối đời Tự Đức, nước ta không có địa danh Chân Mây. Đại Nam thực lục của nhà Nguyễn chỉ có Cảnh Dương, vụng Chu Mãi, núi Chu Mãi, cửa biển Chu Mãi.
Đại Nam nhất thống toàn đồ, bản đồ vẽ năm 1834, đời Minh Mạng, có ghi tên Cảnh Dương, Chu Mãi bằng chữ Hán. (Chữ Chu, bộ Mộc, nghĩa là màu đỏ. Chữ Mãi, bộ Bối, nghĩa là mua).
Thời nhà Nguyễn, Chu là chữ húy, phải đọc thành Châu. Các giấy tờ, văn bản được nhà vua phê duyệt, đóng dấu màu đỏ, gọi là châu bản (bản được phê bằng màu đỏ). Vì vậy, Chu Mãi đôi khi còn được người địa phương gọi là Châu Mãi.
Từ ngày nước ta bị Pháp cai trị, chữ Hán được thay thế bằng chữ quốc ngữ. Tiếng Việt được người Pháp ghi âm theo cách phát âm của tiếng Pháp. Tiếng Pháp lại được thông ngôn người Việt ghi âm bằng chữ quốc ngữ, theo cách phát âm của người Việt. Ngôn ngữ bất đồng, ghi âm thiếu chính xác, không thống nhất. Ngộ nhận, nhầm lẫn là điều khó tránh.
Năm 1749, Chu Mãi được Pierre Poivre ghi âm thành Chu-mée (đọc là Chu Mê).
Tiếp đến thời kì thực dân Pháp thăm dò vẽ bản đồ vùng đèo Hải Vân để mở đoạn đường bộ Đà Nẵng - Huế. Chu Mãi được Besson và nhiều người khác ghi âm là Choumay (Chu Mai). Vịnh Chu Mãi được Pháp phân biệt thành mũi Chu Mãi Đông và mũi Chu Mãi Tây (cap Est de Choumay và cap Ouest de Choumay).
Tháng 2 năm 1886, bác sĩ Hocquard đi qua Chu Mãi, trên đường từ Huế vào Đà Nẵng. Hocquard cũng ghi âm Chu Mãi là Choumay (Chu Mai).
Năm 1920, Henri Cosserat đưa ra một cách giải thích mới: “Choumay, viết đúng chính tả là Châu Mới. Châu Mới là đất thời người Việt mới đến chiếm đóng”(1).
Philippe Papin cũng ngả theo thuyết của Cosserat, cho rằng mũi Chaumay (Châu Mai) có thể là do Châu Mới mà ra(2). (Hocquard chép là Choumay, Papin đổi thành Chaumay để giải thích).
Nguyễn Đắc Xuân cho biết “người dân địa phương gọi (là) Chu Mới”(3).
Sử chép rằng ngày xưa, vua Chế Mân nước Chiêm Thành đã dâng châu Ô, châu Lí cho vua Trần Nhân Tông để xin cưới công chúa Huyền Trân. Châu Ô, châu Lí được nhà Trần đổi tên thành châu Thuận và châu Hóa. Ngoài ra, thời nhà Trần không có châu mới nào khác nằm giữa Huế và Đà Nẵng.
Cũng cần nói thêm là chữ Châu (Châu Mãi, bộ Mộc) viết khác chữ Châu (Châu Mới, bộ Xuyên). Đại Nam nhất thống toàn đồ khẳng định là không có Châu Mới hay Chu Mới.
Chu Mãi ban đầu được người Pháp ghi âm khá đúng thành Choumay.
- Âm u (u mê) của tiếng Việt giống âm ou của tiếng Pháp. (Chu Ân Lai được tiếng Pháp ghi là Chou An Lai).
- Âm ai (em là ai?) của tiếng Việt tương đương với âm að, gần giống âm ay của tiếng Pháp. Mãi đúng ra phải ghi là Mað, nhưng để tránh chữ ð rắc rối, người ta ghi thành May.
(Hải Phòng = Hað Phong, Yên Bái = Yen Bay, Móng Cái = Mon Cay. Vì vậy mà thỉnh thoảng chúng ta được nghe, được thấy… Yên Báy, Móng Cáy. Mấy cái tên “tây giả cầy”).
Chu Mãi hay Châu Mãi được Pháp bóp méo thành Choumay hay Chaumay.
Đến lượt mấy ông thông ngôn người Việt nhập cuộc, uốn nắn… tiếng Pháp.
May rõ ràng là… Mây. Chou Mây hay Chau Mây chỉ có thể là… Chân Mây bị viết sai! Từ đấy, nước ta có Mũi Chân Mây (huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên Huế), có vịnh Chân Mây. Tên rất lãng mạn! Nhưng không phải là chân mây của thơ văn.
Chu Mãi chỉ là một trường hợp cho thấy người Pháp và người Việt đã cùng chung tay bóp méo, nhào nặn thành Chân Mây, Châu Mới hay Chu Mới.
*
Trên bản đồ nước ta ngày nay có 3 tỉnh miền Trung (Phú Yên, Khánh Hòa, Bình Thuận) có Mũi Kê Gà. Tên nghe ngộ nghĩnh. Vừa Kê vừa Gà. Nhưng Kê Gà được ba tỉnh khác nhau dùng thì phải có lí do chính đáng nào chứ?
Mang tiếng là thích du lịch mà cứ ngậm tăm sao?
Đại Nam thực lục của nhà Nguyễn chép:
- Mùa đông tháng 10 năm 1794, “Lấy Phó Hậu chi dinh Trung thủy là Lưu Tiến Hòa quản đạo Ma Li, kiêm lĩnh ba thủ Kê Khê (Khe Gà), La Di, Phù Mi (…)”(4).
- Mùa đông tháng 10 năm 1797, “Lấy khâm sai thuộc nội thống binh cai cơ quản đạo Ma Li là Võ Văn Lân quản đạo Phan Rang, kiêm hai thủ Ma Vằn và Du Lai. Khâm sai thống binh cai cơ cựu chánh Hậu chi Hữu quân là Nguyễn Văn Cẩm quản đạo Ma Li kiêm ba thủ Khe Gà, La Di và Phù Mi”(5).
- Mùa hạ tháng 4 năm 1854, “Giặc biển giết người, cướp bóc thuyền buôn ở cửa biển Long Hưng về Biên Hòa; lại cướp thuyền đại dịch và thuyền buôn ở phận biển khe Kê Chuỷ về Bình Thuận”(6).
Khe Kê Chủy dịch đầy đủ là khe Mỏ Gà. Gọi như vậy vì địa hình tại đây trông giống cái mỏ gà. Khe Mỏ Gà gọi tắt là Khe Gà, thuộc tỉnh Bình Thuận.
Năm 1876, Trương Vĩnh Ký soạn một bài học địa lí rất dài bằng thơ, dành cho bậc tiểu học, đặt tên là Nhựt trình đàng biển nước Annam (từ Vạn Ninh kể vô cho tới cửa Cần Giờ)(7).
Từ Huế vào đến Cần Giờ có hai nơi mang tên Khe Gà:
“Chốn Khe-đào, nhà Rô, mũi Mác,
gành Khe-gà tục-tác bò ra.
Xóm đò ngọn khói đã qua,
lăn buồm dựa Chụt đó là Nha-Trang.
(Gành Khe Gà là Mũi Kê Gà ngày nay, xã Vĩnh Lương, gần thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa).
“Đứng xa ngó dặm trông chừng,
Phố Giày, Phan Thít (Thiết) đã gần trạm Lung.
Sóng giồ bãi cát ỳ-ầm,
sơn lâm một gánh chập-chồng đôi vai.
Khe Gà thì đã tới nơi,
hòn Lang núi Cát thảnh-thơi một gò”.
(Khe Gà là mũi Kê Gà ngày nay, phía Nam thành phố Phan Thiết, huyện Hàm Thuận Nam, tỉnh Bình Thuận).
Tên Kê Gà từ đâu ra?
Bản đồ La Cochinchine française en 1878 có địa danh Pointe Trăng Lợi (Kéga) thuộc Bình Thuận, nằm gần Phan Thiết, La dỳ (La Gi ngày nay). Người Pháp đã khai sinh ra Kéga (đọc là Kê-Ga).
Khe Gà của tiếng Việt bị người Pháp đọc là Kéga. Khe được ghi âm thành Ké (Kê). Trăm tội chỉ vì chữ h câm, hát (h) không ra tiếng của tiếng Pháp.
Kéga của Pháp lại bị thông ngôn người Việt diễn giảng ngược qua tiếng Việt. Các ông nhào nặn Kéga thành Kê Gà. Lợn lành chữa thành lợn què.
Khe Gà biến thành Kê Gà. Vừa kê vừa gà. Khôn ngoan đối đáp người ngoài/ Kê Gà một mẹ chớ hoài đá nhau! Ngộ nghĩnh. Nghe mãi cũng quen.
Khe của tiếng Việt chữ Hán là khê.
Khê là khe nước ở chân núi (Đào Duy Anh). Khe nước, dòng nước trong núi không thông ra đâu gọi là khê (Thiều Chửu).
Khe và sơn khê (núi và khe) được văn thơ dùng để chỉ rừng núi xa xôi.
“Liêu Dương cách trở sơn khê
Xuân đường kíp gọi sinh về hộ tang”. (Kiều)
“Sương đầu núi buổi chiều như gội,
Nước lòng khe nẻo suối còn sâu…” (Chinh phụ ngâm)
“Anh đến thăm, áo anh mùi thuốc súng
Ngoài trời mưa lê thê qua ngàn chốn sơn khê”.
(Nguyễn Văn Đông, Mấy dặm sơn khê)
“Ai về châu xưa, nhớ hồi máu thắm cây rừng
Còn vang khe núi tiếng quân oai hùng” (Văn Cao, Bắc Sơn)
“Ngày mai rộn rã sơn khê
Ngược xuôi tàu chạy, bốn bề lưới giăng”. (Tố Hữu, Việt Bắc)
“Cách rừng cách cả sơn khê!
Em ơi! Giữ mái tóc thề cho xanh!”
(Đinh Hùng, Mái tóc viễn phương)
Khe núi (sơn khê) nào có hình cong cong như mỏ gà đều được gọi là Khe Gà. Tiền thân của Kê Gà sau này.
*
Thành phố Hồ Chí Minh, Sài Gòn, hòn ngọc Viễn Đông năm xưa, có khu phố Dakao (Đa Kao, có bản đồ viết là Đa Cao), thời Tây còn được gọi là Đất Hộ. Đa Kao nằm trong đất của thành Sài Gòn thời Minh Mạng.
Lịch sử của thành phố Sài Gòn đã được Vương Hồng Sển nghiên cứu rất sâu xa. Ông cho biết nhiều chi tiết quan trọng, đặc biệt là nguồn gốc của nhiều địa danh. Đáng tiếc là khi nói đến Đa Kao, Đất Hộ, Vương Hồng Sển không cho biết nguồn gốc của hai tên này(8) (9).
Xin được bàn… Đa Kao, Đất Hộ từ đâu ra?
Trở lại thời Nam Kì lục tỉnh bị mất về tay thực dân Pháp. Người Pháp một mặt ráo riết tổ chức guồng máy cai trị. Mặt khác đổ tiền ra xây dựng thành phố Sài Gòn mới. “San vùng đất cao, lấp vùng trũng thấp để mở đường, xây nhà”. Phải mất nhiều năm mới thực hiện được công trình to lớn này.
Con đường được quy hoạch đầu tiên của Sài Gòn là đường Catinat (Đồng Khởi ngày nay). Đường được trải đá, tráng nhựa, chạy thẳng từ bờ sông đến quảng trường nhà thờ Đức Bà(10)
“Đường Catinat dài hơn một cây số, thoai thoải dốc, hai bên đường trồng hai dãy me, xoài để lấy bóng mát”(11). Các cơ quan, công sở chính đều nằm xung quanh đường Catinat.
Lên hết dốc đường Catinat là tới vùng đất cao (zone de plateau) của thành Sài Gòn (thời Minh Mạng). Người Pháp xây nhà thờ Đức Bà, xây tháp nước (château d’eau)…
Xã hội Sài Gòn được “chia” thành mấy khu dân cư. Người Tàu thích sinh sống tại vùng đất thấp mé bờ sông, kênh rạch. Người Ấn Độ thích ở vùng đất cao ráo trong Chợ Lớn. Công chức Pháp thích xây nhà vườn ở vùng đất cao (zone de plateau) phía Sài Gòn. Vùng này cao hơn vùng đất thấp phía bờ sông Sài Gòn độ 10 mét.
Khu phố Đa Kao nằm tại vùng đất cao này.
Zone de plateau của Pháp được ta gọi là vùng đất cao. Đất cao được người Pháp phát âm là Dakao (Đa cao). Thế là bà con ta bưng nguyên mâm Đa Kao ra sài. Cái tên thuần Việt trở thành rất tây. Kết quả của giao lưu văn hóa… bất đắc dĩ.
Bạn bè tôi ơi, còn nhớ Casino Đakao không? Rạp thường trực, có máy lạnh. Mười đồng, có ngày hạ giá chỉ còn năm đồng, hai phim. Cao bồi đấm đá, bắn súng tưng bừng. Còn nhớ rạp A.Sam Đakao nóng như cái lò không?
Đa Kao còn có tên khác là Đất Hộ. Không phải vì đất này đông dân, nhiều hộ khẩu mà được đặt tên như vậy.
Khi mở đường xây dựng thành phố Sài Gòn - Chợ Lớn, thực dân Pháp đã làm 2 đường chiến lược (routes stratégiques), nối liền hai khu vực đông dân. Một đường dưới phía bờ sông, đất thấp (route basse) và một đường trên phía đất cao (route haute).
Route haute được người Việt sính tiếng Pháp gọi là đường hô (haut). Đất cao được gọi là đất hô. Tiếng tây tiếng ta vật lộn, bất phân thắng bại cho tới ngày Đất Hô lột xác, biến âm thành Đất Hộ. Tiếng ta toàn thắng!
“Méc ai kiếm đất cất nhà
Đa Kao, Đất Hộ mới là Đất Cao”.
Xin bà con cho một tràng pháo tay, hoan hô các chuyên gia ngoại ngữ đã thêu dệt, trang điểm cho giang sơn gấm vóc này!
Lyon, 11/2013
N.D
(SDB11/12-13)
...............................
(1) Henri Cosserat, La route mandarine de Tourane à Huế, BAVH, 1-3/1920, tr. 57.
(2) Docteur Hocquard, Une campagne au Tonkin, Arléa, 1999, tr. 643.
(3) Nguyễn Đắc Xuân, Văn hóa Cố đô, Thuận Hóa, 1997, tr.196.
(4) Đại Nam thực lục, tập 1, Giáo Dục, 2004, tr. 313.
(5) nt, tr. 360.
(6) Đại Nam thực lục, tập 7, tr. 307.
(7) Trương Vĩnh Ký, Manuel des Écoles primaires, Imprimerie Gouvernement, Saigon, 1876, tr. 24 - 26).
(8) Vương Hồng Sển, Sài Gòn năm xưa (1968), Xuân Thu tái bản, tr.140, 198.
(9) Vương Hồng Sển, Sài Gòn tạp pín lù, Văn Hóa, 1997, phần 2, tr. 46.
(10) La Cochinchine française en 1878, Challamel, 1878, tr. 67 - 73.
(11) George Drrwell, Ma chère Indochine, Mignot, 1911, tr. 84.
ĐỖ LAI THÚYHòn đất cũng biết nói năng(Nhại ca dao)
HOÀNG CẦMĐang những ngày hè oi ả, mệt lử người thì anh ấy mời tôi viết Bạt cho tập thơ sắp muốn in ra. Ai đời viết bạt cho tác phẩm người khác lại phải dành trang giấy đầu tiên để viết về mình? Người ta sẽ bảo ông này kiêu kỳ hay hợm hĩnh chăng? Nhưng cái anh thi sỹ tác giả tập thơ thì lại bảo: Xin ông cứ viết cho, dẫu là bạt tử, bạt mạng, thậm chí có làm bạt vía ai cũng được - Chết, chết! Tôi có thể viết bạt mạng chứ sức mấy mà làm bạt vía ai được.
ĐẶNG ANH ĐÀOTrong tác phẩm nghệ thuật, phân biệt thật rạch ròi cái gì là ý thức, sáng suốt, tự giác với cái gì vô ý thức, tự phát, cảm tính không phải là điều đơn giản. Ngay cả những nhà văn lãng mạn như Huygô, nhiều lúc sử dụng nhân vật chính diện như những cái loa phát biểu lý tưởng của mình, thế mà đã có lúc Kessler bịt miệng lại không cho tán tụng nhân vật Côdet và mắng rằng: Huygô anh chả hiểu gì về tác phẩm ấy hết", đồng thời tuyên bố rằng ông còn thích Epônin gấp bội lần "Côdet, cô nàng điệu đàng đã tư sản hóa ấy".
ĐỖ ĐỨC HIỂU…Với tôi, Balzac là Tiểu thuyết, và Tiểu thuyết là Balzac, - tiểu thuyết Balzac là "tiểu thuyết tuyệt đối", tức là nó biểu hiện tất cả sức mạnh sáng tạo của ông, tất cả cái "lực" của ý thức và tâm linh, của khoa học và tôn giáo, từ cấu trúc truyện và thời - không gian (chronotope), đến cấu trúc nhân vật, tất cả phối âm, tương ứng với nhau thành một dàn nhạc hoàn chỉnh…
HỮU ĐẠTKhông phải ngẫu nhiên, Trần Đăng Khoa lại kết thúc bài viết về Phù Thăng một câu văn rất là trăn trở: "Bất giác... Tôi nắm chặt bàn tay gầy guộc của Phù Thăng, lòng mơ hồ rờn rợn. Chỉ sợ ở một xó xỉnh nào đó, sau lùm cây tối sầm kia, lại bất ngờ cất lên một tiếng gà gáy..." Ta thấy, sau cái vẻ tếu táo bên ngoài kia lắng xuống một cái gì. Đó là điểm gợi lên ở suy nghĩ người đọc.
HÀ QUANG MINHTôi không muốn chỉ bàn tới cuốn sách của ông Khoa mà thôi. Tôi chỉ coi đó là một cái cớ để bàn luận về nền văn học nước nhà hiện nay. Là một người yêu văn học, nhiều khi tôi muốn quên đi nhưng vô tình vấn đề nẩy sinh TỪ "CHÂN DUNG VÀ ĐỐI THOẠI" đã trở thành giọt nước cuối cùng làm tràn ly và lôi tuột cái nỗi đau mà tôi muốn phớt lờ ấy. Phải, tôi thấy đau lắm chứ. Bởi lẽ ai có ngờ mảnh đất trong sáng mang tên văn học sao giờ đây lại ô nhiễm đến thế.
HOÀNG NGỌC HIẾN(góp phần định nghĩa minh triết) (tiếp Sông Hương số 248)
Việc giải quyết thành công mối quan hệ giữa tính dân tộc và tính hiện đại đã hình thành ra các trường phái âm nhạc như: âm nhạc Nga, Pháp, Mỹ, Trung Hoa . . .
Phê bình thi pháp học đã mang đến sức sống mới cho phê bình văn học Việt Nam. Một số nhà nghiên cứu cho rằng thi pháp học là phương pháp minh chứng cho thành quả thay đổi hệ hình nghiên cứu trong phê bình văn học.
Hiện nay trên thế giới, quan niệm về Nghệ thuật tạo hình, Nghệ thuật thị giác và Mỹ thuật mang ý nghĩa gần giống nhau. Nó bao gồm: hội họa, đồ họa, kiến trúc, điêu khắc, trang trí ứng dụng, video clip, sắp đặt v.v..Loại hình nghệ thuật này luôn xuất hiện bằng những hình ảnh (image) thu hút mắt nhìn và ngày càng mở rộng quan niệm, phương thức biểu hiện cũng như khai thác chất liệu. Tuy nhiên, để hiểu thế nào là nghệ thuật trong tranh, hoặc vẻ đẹp của một công trình nghệ thuật còn là câu hỏi đặt ra với nhiều người.
HÀ VĂN LƯỠNGPuskin không chỉ là nhà thơ Nga vĩ đại, nhà viết kịch có tiếng mà còn là nhà cải cách văn học lớn. Là người “khởi đầu của mọi khởi đầu” (M. Gorki) Puskin bước vào lĩnh vực văn xuôi với tư cách là một người cách tân trong văn học Nga những năm đầu thế kỷ. Những tác phẩm văn xuôi của ông đã đặt cơ sở vững chắc cho văn xuôi hiện thực và sự ra đời của chủ nghĩa hiện thực phê phán Nga, góp phần khẳng định những giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc.
ĐẶNG VIỆT BÍCHGần đây trên tuần báo Văn Nghệ đã có bài viết bàn về vấn đề đào tạo "Văn hóa học", nhân dịp Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam ra nghị quyết V về xây dựng một nền văn hóa, văn nghệ tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
PHAN TUẤN ANH “Cuộc nói chuyện của chúng ta đã cho tôi thấy rằng hết thảy những gì liên quan đến bản chất của ngôn ngữ mới ít được nghĩ đến làm sao” (Martin Heidegger)
TRẦN ĐÌNH SỬVăn học sáng tác là nhằm để cho người đọc tiếp nhận. Nhưng thực tế là người đọc tiếp nhận rất khác nhau. Lý luận tiếp nhận truyền thống giải thích là do người đọc không sành.
NGUYỄN THANH HÙNGVăn học là cuộc sống. Quan niệm như vậy là chẳng cần phải nói gì thêm cho sâu sắc để rồi cứ sống, cứ viết, cứ đọc và xa dần mãi bản thân văn học.
LTS: Cuộc tranh luận giữa hai luồng ý kiến về nhân vật lịch sử Nguyễn Hiển Dĩnh, một mệnh quan triều đình Huế có công hay có tội vẫn chưa thuyết phục được nhau.Vấn đề này, Tòa soạn chúng tôi cũng chỉ biết... nhờ ông Khổng Tử "Tri chi vi tri chi, bất tri vi bất tri, thị tri giả" (biết thì nói biết, không biết thì nói không biết, ấy là biết). Vậy nên bài viết sau đây của nhà văn, nhà nghiên cứu lịch sử văn hóa Nguyễn Đắc Xuân, chúng tôi xin đăng nguyên văn, tác giả phải gánh trọn trách nhiệm về độ chính xác, về tính khoa học của văn bản.Mong các nhà nghiên cứu, cùng bạn đọc quan tâm tham gia trao đổi tiếp.
NGUYỄN ĐẮC XUÂNNăm 1998, Thành phố Đà Nẵng dự định lấy tên nhà soạn tuồng Nguyễn Hiển Dĩnh đặt cho con đường mới song song với đường 2 tháng 9 và đường Núi Thành. Nhưng sau đó qua một số tin bài của tôi đăng trên báo Lao Động nêu lên những điểm chưa rõ ràng trong tiểu sử của ông Nguyễn Hiển Dĩnh, UBND Thành phố Đà Nẵng thấy có một cái gì chưa ổn trong tiểu sử của Nguyễn Hiển Dĩnh nên đã thống nhất rút tên ông ra khỏi danh sách danh nhân dùng để đặt tên đường phố lần ấy. Như thế mọi việc đã tạm ổn.
Vừa qua nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân có viết một loạt bài về ông Nguyễn Hiển Dĩnh - một quan lại triều nguyễn, nhà soạn tuồng nổi tiếng Quảng Nam. Qua thư tịch, anh chứng minh Nguyễn Hiển Dĩnh tuy có đóng góp cho nghệ thuật tuồng cổ nhưng những hành vi tiếp tay cho Pháp đàn áp các phong trào yêu nước ở Quảng Nam quá nặng nề nên không thể tôn xưng Nguyễn Hiển Dĩnh là danh nhân văn hoá của việt Nam như Viện Sân khấu và ngành văn hoá ở Quảng Nam Đà Nẵng đã làm. Qua các bài viết của Nguyễn Đắc Xuân có những vấn đề lâu nay ngành văn hoá lịch sử chưa chú ý đến. nhà báo Bùi Ngọc Quỳnh đã có cuộc đối thoại lý thú với anh về những vấn đề nầy.
ĐỖ NGỌC YÊNVào những năm 70 của thế kỷ, ở nhiều nước phương Tây tràn ngập không khí của cuộc khủng hoảng gia đình, làm cho nhiều người rất lo ngại. Một số kẻ cực đoan chủ trương xóa bỏ hình mẫu gia đình truyền thống. Nhưng cái khó đối với họ không phải là việc từ bỏ hình mẫu gia đình cũ - mặc dù trên thực tế việc làm đó không phải dễ - mà vấn đề đâu là hình mẫu gia đình mới.
NGUYỄN ĐÌNH CHÍNH Phóng sự điều tra