Cần phải có người “dọn sân”

10:51 11/12/2008
NGUYỄN ĐÔNG HIẾUTrong cuộc đời làm xuất bản của mình, Phùng Quán là một nhà văn đã để lại cho tôi những ấn tượng mạnh mẽ, sâu sắc, khó quên.

Hồi đó tôi đang là biên tập viên của Nhà xuất bản Thuận Hoá. Năm 1987, nhà xuất bản đưa vào kế hoạch xuất bản 3 tập “Tuổi thơ dữ dội” của Phùng Quán. Nếu sau mấy chục năm bị “gác bút” phải mượn tên viết văn chui kiếm sống, lần đầu tiên được xuất hiện trở lại “danh chánh ngôn thuận” trên mặt báo với tên thật Phùng Quán là bài thơ “Trường ca cây cà” đăng ở báo Quảng Nam - Đà Nẵng chủ nhật (số 7 ngày 15.2.1987) thì bộ tiểu thuyết 3 tập “Tuổi thơ dữ dội” chính là cuốn sách đầu tiên đưa anh trở lại văn đàn.
Thực ra, Nhà xuất bản Thuận Hoá đã in tập 1 “Tuổi thơ dữ dội” của Phùng Quán từ năm 1983 nhưng với tên sách là “Buổi đầu thử thách” và tên tác giả là Đào Phương. Nhưng mãi tới năm 1986, sau khi “đổi mới” chúng tôi mới biết được sự thật này vì người đưa bản thảo “Buổi đầu thử thách” đến Nhà xuất bản Thuận Hoá hồi đó không phải là Phùng Quán.

Ba tập bản thảo “Tuổi thơ dữ dội” do biên tập viên Hoàng Thị Duyên được phân công đứng tên biên tập. Tuy vậy, khi đó tất cả biên tập viên trong nhà xuất bản đều được truyền tay nhau đọc. Tôi còn nhớ bản thảo được Phùng Quán viết tay trên giấy giang, có kẻ dòng bằng bút chì rất rõ ràng. Chữ Phùng Quán nghiêng nghiêng, viết chân phương và rất rõ nét. Không rõ hiện nay Nhà xuất bản Thuận Hoá còn lưu giữ đầy đủ bản thảo viết tay đó không. Còn nhớ có lần tôi hỏi anh Lê Dần, giám đốc Nxb Thuận Hoá tiếp sau thời anh Vương Hồng thì anh cho biết hình như sau trận lụt 1999 đã cho thanh lý cả rồi, cầu mong không có bản thảo “Tuổi thơ dữ dội” trong số ấy. Còn nếu đúng vậy thì thật đáng tiếc và xót xa.

Thời gian bản thảo nằm ở Nxb Thuận Hoá chờ đưa in, Phùng Quán từ Hà Nội vào Huế, chúng tôi dược tiếp xúc và nghe anh đọc thơ nhiều lần. Sau này ra Hà Nội học, thỉnh thoảng tôi vẫn ghé nhà anh và được nghe anh đọc thơ. Một điều ở Phùng Quán luôn gây cho tôi ấn tượng mạnh, đó là giọng đọc thơ của anh. Khi có chút rượu, có người ngồi nghe và đề nghị, là thơ Phùng Quán bắt đầu tuôn chảy. Càng đọc anh càng say sưa, y như người “nhập đồng” vậy. Phải nói đó là biệt tài của Phùng Quán. Tôi chưa từng thấy ai có được những cảm xúc như vậy. Dù đã nghe anh đọc nhiều lần một bài thơ nào đó nhưng khi nghe anh đọc lại tôi vẫn như thấy được nghe lần đầu.

Thơ Phùng Quán phải do chính anh đọc mới thấy được “máu thịt” anh gửi gắm trong đó. Mỗi bài thơ trước khi đọc, anh đều có đôi lời “khai từ” về xuất xứ ra đời và những kỷ niệm gắn liền với nó. Với giọng Huế pha Bắc nhỏ nhẹ, trầm ấm nhưng khi đọc thơ, Phùng Quán như trút hết ruột gan vào đó và giọng thơ trở nên hào hùng, da diết. Nghe Phùng Quán đọc thơ biết bao người đã phải rơi nước mắt, nhất là các cô gái trẻ. Viết đến đây, làm tôi lại nhớ đến những giọt nước mắt trên khuôn mặt thánh thiện của cô bé Thanh Trà, con gái một nhà báo đồng hương Huế ở Hà Nội mỗi khi nghe “bác Quán đọc thơ”.

Vì đã trải qua những năm tháng lận đận “cá trộm – rượu chịu – văn chui”, Phùng Quán rất ý thức với công việc xuất bản. Chính anh đã nhiều lần khuyên nhủ tôi khi tôi có ý định chuyển sang công việc khác. Anh ví von công việc xuất bản như là người “dọn sân cho cầu thủ đá”. Cầu thủ hay phải có sân đá, không có sân đá thì làm sao biết được những cầu thủ hay mà tôn vinh họ. Mới đây, (12 – 2005) gặp nhà văn Trần Thuỳ Mai, một đồng nghiệp cũ ở Nxb Thuận Hoá, tôi lại được nghe Trần Thuỳ Mai lại nhắc một ý của Phùng Quán khi so sánh nghề văn với nghệ sỹ xiếc đi trên dây. Mỗi người, mỗi nghề là bạn Phùng Quán chắc đều nhận được những lời khuyên chí tình...

Phùng Quán là người sống rất tình nghĩa và giản dị. Còn nhớ năm 1993, khi tôi chuyển vào Sài Gòn ở trong một con hẻm nhỏ đường Lý Chính Thắng – Quận 3, vì mới chân ước chân ráo vào Sài Gòn, nơi ăn chốn ở còn vô cùng nhếch nhác nên chẳng muốn ai biết. Ấy vậy mà Phùng Quán khi đó đang ở nhà KTS Nguyễn Trọng Huấn với Hoàng Phủ Ngọc Tường trong một cuộc “Hành phương nam”, vô tình qua một người bạn biết được địa chỉ của gia đình tôi đã lặn lội ghé thăm, ký tặng tôi và vợ con những bài báo do anh viết được photocopy lại. Tình cảm và hành động đó của anh lâu lâu vợ tôi còn nhắc.

Hôm nay, đọc xong bản thảo những bài báo, bút ký của
anh do nhà thơ Ngô Minh tập hợp để in thành cuốn sách “Ba phút sự thật”, khiến cho tôi không khỏi bàng hoàng, xúc động. Các bài báo anh viết tôi đã đọc rải rác đây đó. Nhưng lần đầu tiên tập hợp lại cùng với một số di cảo của anh do chị Vũ Bội Trâm  (vợ anh) cung cấp, đặc biệt là những trang viết thêm cuối đời dở dang của anh về phong trào Truyền bá chữ quốc ngữ, về vai trò của cụ Hoàng Xuân Hãn trong việc vần vè hoá các mẫu tự cho bà con nông dân dễ tiếp thu... Càng làm cho tôi thương anh, hiểu nhiều về anh hơn. Lâu nay bạn đọc mới chỉ biết đến thơ, tiểu thuyết của anh. Bây giờ qua tuyển tập các bài ký trong tập “Ba phút sự thật  này, tôi tin rằng mọi người sẽ phát hiện ra một Phùng Quán khác: mới mẻ – lạ lẫm – tài hoa và đặc biệt có thể nói tính CHÂN – THIỆN – MỸ đã được hội tụ đầy đủ nhất trong tuyển tập bút ký “Ba phút sự thật”  này. Nhiều bài viết của anh còn nóng hổi tính thời sự như bài Nhà thơ với tệ tham nhũng viết về câu chuyện của nhà thơ Đoàn Phú Tứ với Trần Dụ Châu, một tên tham nhũng khét tiếng thời chống Pháp. Giờ sáng vô cơ quan giở báo ra thấy thông tin về vụ PMU 8 tràn ngập trên các báo, đọc lại anh càng thấy kính phục. Với linh cảm một nghệ sỹ, và tấm lòng yêu tổ quốc, yêu nhân dân và chế độ, cách đây nửa thế kỷ anh đã viết “Chống tham ô lãng phí”  và cảnh báo hiểm họa của nó. Với vũ khí thơ, anh đã “đánh vỗ mặt thóái dối trá, đạo đức giả, tệ quan liêu tham nhũng, tuy ngày đó chỉ mới manh nha, nhưng tôi đã dự cảm sẽ là hiểm họa khôn lường đang rình phục nhân dân tôi, Đảng tôi; có nguy cơ làm băng hoại những gì thiêng liêng cao quý mà cả triệu người suốt thế kỷ qua không tiếc máu xương để tạo dựng, bảo vệ...” (Khai từ – Trăng Hoàng Cung).

Anh Phùng Quán ơi! Được làm người “dọn sân” cho anh là một hạnh phúc và vinh hạnh của em. Em tin rằng nhất định bạn đọc sẽ trao cho anh “chiếc giày vàng” đấy, anh Phùng Quán ạ!
             Sài Gòn – Thành phố Hồ Chí Minh tháng 5 – 2006
                                       N.Đ.H

(nguồn: TCSH số 209 - 07 - 2006)

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • ĐÔNG LAThế là sự ồn ào qua rồi. Diễn đàn đã đóng cửa. Nhưng lẽ nào việc thẩm định văn chương chỉ râm ran một hồi như thế, rồi cái nhùng nhằng còn nguyên nhùng nhằng, sự mâu thuẫn còn nguyên mâu thuẫn, và chuyện hay dở đến đâu cũng vẫn cứ mãi lửng lơ!

  • ĐÀO DUY HIỆP"Ngữ pháp, ngữ pháp khô khan chính nó, trở thành cái gì đó như một thuật phù thủy, gọi hồn; các từ sống lại, được cấp xương thịt, danh từ trong dáng vẻ tôn nghiêm bản thể của nó, tính từ, trang phục trong suốt khoác lên nó và nhuộm sắc cho nó một lớp tráng, còn động từ, thiên thần của vận động, mang lại cho câu sự động dao" (Baudelaire) (1)

  • MAI VĂN HOANMai Văn Hoan sinh 20-1-1949, quê Thanh Trạch, Bố Trạch, Quảng Bình. Anh tốt nghiệp khoa Văn, Đại học Sư phạm Vinh và từng dạy ở các trường: Cấp 3 Minh Hoá (1971-1973), Sư phạm 10+3 Quảng Bình (1973-1979), Hai Bà Trưng (1979-1985), Quốc Học (1985-2009). Anh từng tham gia bồi dưỡng hàng chục học sinh giỏi văn tỉnh Bình Trị Thiên (1979-1989), tỉnh Thừa Thiên Huế (1989-2009) đoạt giải Quốc gia. Một số học sinh của anh đã trở thành phó giáo sư, tiến sĩ, cán bộ quản lý, nhà văn, nhà báo... nhưng vẫn “mãi mãi không thể nào quên những giờ dạy văn của thầy Mai Văn Hoan” như lời chị Lương Thị Bích Ngọc tâm sự trên VietNamNet.

  • NGUYỄN HỮU NGÔ Cuốn sách đồ sộ "Côn Đảo" của Nhà xuất bản Trẻ (1996) là một nguồn tư liệu quý mà những người làm công việc nghiên cứu lịch sử cách mạng Việt Nam không thể không tìm đến. Vì vậy sự chính xác về thông tin đòi hỏi phải khẳng định. Và cũng vì vậy tôi có đôi điều xin thưa với ban biên tập Nhà xuất bản Trẻ về những thông tin về nhân vật Mai Tấn Hoàng được coi là người tử tù cách mạng.

  • VÕ THỊ QUỲNHĐặng Huy Trứ (1825 - 1874) đã để lại khá nhiều thơ văn cho đời. "Từ Thụ Yếu Quy"(*) tập sách bàn về nạn hối lộ và đức thanh liêm của người làm quan, là một trong những áng văn quý giá ấy.

  • Văn Cầm Hải tên thật Nguyễn Thanh Hải, sinh ngày 20 tháng 01 năm 1972, quê ở làng Trần Xá, Hàm Ninh, Quảng Ninh, Quảng Bình.

  • CAO HUY HÙNGBa mươi năm đã trôi qua, kể từ ngày Bác Hồ vĩnh biệt chúng ta! Người đã để lại cho toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta di sản vô cùng quí báu: Đó là bản di chúc lịch sử của thời đại Hồ Chí Minh, thời đại rực rỡ nhất trong lịch sử vinh quang hàng ngàn năm của dân tộc. Đó là kỷ nguyên độc lập dân tộc, tự do của Tổ quốc, kỷ nguyên cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.

  • LÊ THỊ MÂYĐề tặng một giấc mơ là tập thơ hay và buồn của Lâm Thị Mỹ Dạ. Tập thơ này được giải thưởng của UBTQLH các Hội Văn học Nghệ thuật Việt Nam năm 1998. Sau khi xóa bao cấp trong in ấn thơ, rất nhiều người có cơ hội tự in thơ, có khi là mỗi năm một tập. Lâm Thị Mỹ Dạ không ở trong diện ấy.

  • ĐẶNG TIẾNPhê bình huyền thoại(1) của Đào Ngọc Chương là một cuốn sách mỏng, in giới hạn, có lẽ chỉ nhắm vào một nhóm sinh viên, nhưng là sách cần yếu, mới mẻ.

  • HỒNG NHUĐó là “Tình bậc thang” (NXB Hội Nhà văn 2006) và “Mặt cắt” (NXB Hội Nhà văn 2007) của một nữ thi sĩ mà cho đến nay không nhiều người biết đến, ít nhất là trong làng thơ. Vì một lẽ rất giản đơn: chị mới xuất hiện trên thi đàn Việt Nam vài ba năm nay thôi.

  • FAN ANHTrong cuộc sống của tất cả chúng ta, đôi khi nụ cười không đồng nghĩa với sự hạnh phúc, cũng như nước mắt không phải bao giờ cũng đồng điệu với nỗi đau. Chính vì thế, mặc dù tiểu thuyết Ba ơi, mình đi đâu? của Jean Louis Fournier là một tác phẩm có thể “gây ra” không ít những tiếng cười, nhưng cảm xúc thanh lọc (Catharsis) mà cuốn sách nhỏ này mang lại cũng lớn lao như bất kì một vở bi kịch nào.

  • Ngày 6 tháng 4 năm 2007 tại Hà Nội, chúng tôi đến thăm nhà thơ Dương Tường tại nhà riêng. Dương Tường ngồi sau một chiếc bàn nhỏ và thấp chất đầy sách vở và ly tách giữa một căn phòng rộng dùng làm phòng triển lãm tranh. Tranh treo kín các tường.

  • ĐOÀN TUẤNTrong tâm tưởng của tôi, thi sĩ Nguyễn Bính là một người có dáng gầy, vóc nhỏ, gương mặt nhẹ nhõm với đôi mắt sáng, tinh anh, mũi dọc dừa và cái miệng cân đối. Tóc Nguyễn Bính không bao giờ để dài. Áo quần Nguyễn Bính thường có màu sáng. Ông đi lại nhanh nhẹn, nhiều khi vội vã. Gương mặt Nguyễn Bính là một gương mặt ưa nhìn bởi trong đó chứa đựng chiều sâu của nhiều ý nghĩ và sắc mặt thay đổi theo tâm trạng thất thường của ông.

  • PHẠM QUANG TRUNGTôi muốn nói đến bài “ Tạm biệt” (hay “ Tạm biệt Huế”) của nhà thơ Thu Bồn. Dẫu đã có nhiều bài thơ hay, rất hay lấy cảm hứng từ Huế, tôi dám quả quyết là nó sẽ vẫn được nhắc tới như là một trong những bài thơ hay nhất. Xin kể một kỷ niệm đẹp riêng với tôi.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊNâng hợp tuyển “Hải Bằng” (HTHB) sang trọng và trĩu nặng trên tay, thật nhiều cảm xúc tràn đến với tôi. Cuốn sách được gia đình nhà thơ Hải Bằng tặng cho tất cả những người đến dự ngày giỗ lần thứ 11 của nhà thơ được tổ chức tại một ngôi nhà mới xây ở cuối đường Thanh Hải - lại là tên nhà thơ quen thuộc của xứ Huế.

  • TÔN PHƯƠNG LANCũng như những nhà văn mặc áo lính thuộc thế hệ đầu và tờ tạp chí Văn nghệ quân đội của họ, Trần Dần là một tên tuổi quen thuộc mà gắn với tên tuổi ông là cuốn tiểu thuyết Người người lớp lớp. Là một học sinh thành phố, khi Cách mạng tháng Tám thành công, 19 tuổi, ông bắt đầu hoạt động cách mạng rồi đầu quân tham gia kháng chiến chống Pháp và hoạt động văn nghệ.

  • Hồ Thế Hà sinh năm 1955, quê ở thị trấn Ngô Mây, huyện Phù Cát, tỉnh Bình Định. Anh tham gia quân đội từ 1978 đến 1982, chiến đấu tại Campuchia. Hồ Thế Hà tốt nghiệp khoa Ngữ văn, Đại học Tổng hợp Huế năm 1985 và được giữ lại trường. Hiện anh là Phó Giáo sư, Tiến sĩ đang giảng dạy tại khoa Ngữ văn, trường Đại học Khoa học - Đại học Huế. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, Hội viên Hội Nhà báo Việt Nam. Anh đồng thời là Ủy viên Ban chấp hành Hội LHVHNT Thừa Thiên Huế, Ủy viên Ban chấp hành Hội Nhà văn Huế nhiệm kì: 2000 - 2005; 2005 - 2010. Chủ tịch Hội đồng Nghệ thuật Hội LHVHNT Thừa Thiên Huế, nhiệm kì 2000 - 2005; 2005 - 2010.

  • PHẠM PHÚ PHONGĐúng vào dịp Huế chuẩn bị cho Festival lần thứ III năm 2004, Vĩnh Quyền cho tái bản tập ký và truyện Huế mình, tập sách mới in trước đó chưa tròn một năm, năm 2003. Trước khi có Huế mình, Vĩnh Quyền đã có nhiều tác phẩm được bạn đọc chú ý như các tiểu thuyết lịch sử Vầng trăng ban ngày, Mạch nước trong, Trước rạng động, các tập truyện Người tử tù không chết, Người vẽ chân dung thế gian, Màu da thượng đế, tập bút ký Ngày và đêm Panduranga và tập tạp văn Vàng mai.

  • ...Không có sự lựa chọn nào cả, tôi đến với thơ như một nghiệp dĩ. Tôi nghĩ thơ là một thứ tôn giáo không có giáo chủ. Ở đây, các tín đồ của nó đều được mặc khải về sự bi hoan trần thế và năng lực sẻ chia những nỗi niềm thân phận. Cuộc đời vốn có cái cười và cái khóc. Người ta, ai cũng có thể cười theo kiểu cười của kẻ khác, còn khóc thì phải khóc bằng nước mắt của chính mình. Với tôi, thơ là âm bản của nước mắt...

  • …Có thể thấy gần đây có những xu hướng văn học gây “hot” trong độc giả, ví như xu hướng khai thác truyện đồng tính. Truyện của tôi xin khước từ những “cơn nóng lạnh” có tính nhất thời ấy của thị trường. Tôi bắt đầu bằng chính những câu chuyện giản đơn của cuộc sống hàng ngày, những điều giản đơn mà có thể vô tình bạn bước qua…