Cần “tiếp âm” cho nghệ thuật không lời

16:29 13/05/2008
Trên Tạp chí Sông Hương số tháng 3, nhân sự kiện Trần Hạ Tháp dành được giải A trong cuộc thi truyện ngắn của báo “Văn nghệ”, tôi vừa lên tiếng về sự “lặng lẽ” - một điều kiện cần thiết để làm nên tác phẩm văn học nghệ thuật có giá trị, nay lại nói điều ngược lại, vậy có “bất nhất” có mâu thuẫn không?

Xin thưa: sự đời bao giờ cũng có hai mặt. Ngay cả với những tác giả đã “lặng lẽ” làm nên tác phẩm xuất sắc cũng cần sự “ồn ào” kèm theo. Không có những lời khen (và cả tiếng chê) nối nhau xuất hiện trên báo chí, thì giữa thời buổi thiên hạ đang khoái các món ngắn gọn và “mì ăn liền”, làm gì có chuyện các bộ sách dày cộp, cầm đọc mỏi tay, giá lại đắt như “Chiều chiều” của Tô Hoài, “Cơ hội của Chúa” của Nguyễn Việt Hà, “Hồ Quý Ly” của Nguyễn Xuân Khánh... lại được độc giả tìm đọc; sách vừa xuất bản đã phải tái bản. Một sự “ồn ào”, ba phía được lợi: đông đảo bạn đọc lại được  hưởng cái thú mỉm cười một mình trước những trang sách hay; Nhà xuất bản và “đầu nậu” lời to; còn tác giả có thêm nhuận bút.
Hình như đã có người nhận xét là Huế không giỏi cách thức làm “ồn ào” ấy; nói theo ngôn ngữ thương mại là tiếp thị kém, mình có nhiều cái hay cái quý mà không biết cách quảng bá với thiên hạ. Chẳng biết ý kiến đó là đúng hay sai. Tôi chỉ bàn riêng về lĩnh vực văn nghệ, về một loại hình “nghệ thuật không lời” đang cần được “tiếp âm”.
Chợt nhớ hồi đầu tháng 3, trong buổi làm việc với nhà thơ Nguyễn Duy - đại diện Ban biên tập báo Văn nghệ, tại trụ sở tòa soạn Tạp chí Sông Hương, ông Nguyễn Xuân Hoa, Phó Giám đốc Sở Văn hóa thông tin Thừa Thiên-Huế đã nhắc đến sự kiện sẽ có Trại Điêu khắc quốc tế lần thứ hai tổ chức vào năm 2002. Chuyện đang ở “thì tương lai” mà đã được quảng bá từ hôm nay. Làm ăn có tính toán, có kế hoạch, biết nhìn xa thế là phải. (Xin được mở ngoặc nói thêm: Có một tờ báo nêu nhận xét rằng, nhiều cơ quan chỉ lo chạy “dự án” để có tiền “phần trăm” để hưởng các “tiêu cực phí”, chứ việc triển khai các dự án thế nào, hậu quả nó ra sao thì bất cần! Các sự kiện “Từ điển...” ồn ào mấy tháng nay và hai công trình kè bờ sông tốn hàng chục tỷ đồng vừa mới bị tạm đình chỉ, liệu có lây nhiễm cái bệnh ấy không? Nếu không, xin coi mấy dòng trên như là... một cách phòng bệnh vậy) Liên quan đến chuyện “trong ngoặc” là “hậu dự án” Trại Điêu khắc quốc tế lần thứ nhất. Xin nói ngay để khỏi hiểu lầm: Những người lo cho Trại lần I đã làm hết sức để Huế có thêm những công trình nghệ thuật mới và tôi là người có bài viết sớm nhất, đăng trên tờ báo có lượng phát hành vào loại lớn nhất nước (tờ “Kiến thức ngày nay”) giới thiệu thành công của Trại.
Chuyện “hậu dự án” Trại Điêu khắc quốc tế lần I là quang cảnh vườn tượng hôm nay. Ngay từ khi Trại mới kết thúc đã có sự “đùn đẩy” trách nhiệm hoàn chỉnh khuôn viên và quản lý vườn tượng. Lại có ý kiến rằng vị trí mỗi bức tượng và của cả vườn tượng nữa chưa có quyết định dứt khoát. Có phải vì vậy mà đến nay, vườn tượng vẫn như là không chủ?...
Xin nói sang một khía cạnh khác. Vườn tượng tồn tại đã hơn 2 năm, nhưng nhiều du khách đến Huế vẫn chưa biết, vì nếu tôi không nhầm, nó chưa được giới thiệu trong các sách hướng dẫn du lịch thông dụng, chưa trở thành một địa chỉ văn hóa. Lại nữa, bên cạnh những tấm biển đồng ghi tên tác giả dưới mỗi bức tượng, tiếc gì không dựng một bảng đồng cho thật “ấn tượng”giới thiệu vắn tắt, đại thể “Vườn tượng này được hình thành từ Trại Điêu khắc quốc tế tổ chức từ 1/11 đến 15/12/1998 với sự tài trợ của...., có 29 tác giả tham dự - trong đó 16 người đến từ các nước...”, tạo nên “cột mốc” hình thành một địa chỉ văn hóa mới và thu hút người xem.
 Không chỉ ở vườn tượng quốc tế, bức tượng cụ Phan Bội Châu cũng rất cần bảng giới thiệu  vắn tắt quá trình hình thành, tác giả, kích thước, trọng lượng... của pho tượng. Nhiều lần dẫn những người bạn đến đây, họ đều hỏi về những điều đó, nhưng làm sao tôi nhớ hết được. Nhân nhắc đến bức tượng cụ Phan, xin được nêu lại vấn đề mà các cơ quan hữu quan ở Huế đã bàn bạc nhiều lần vẫn chưa quyết định được. Đó là việc nên đặt bức tượng này ở đâu cho thích hợp? Gần đây, nhân ngày giỗ lần thứ 60 của cụ Phan, trên báo “Lao động”, ông Dương Trung Quốc, Tổng Thư ký Hội Khoa học lịch sử Việt Nam trong bài “Pho tượng chưa được đặt đúng chỗ” cũng đã viết: “...Dự kiến tượng sẽ được đặt trên khoảng không gian rộng đầu cầu Phú Xuân. Đáng tiếc là ý tưởng tốt đẹo ấy không thành hiện thực...Hình như có chủ trương chưa thành văn bản là vì Huế chưa có tượng đài Bác Hồ nên chưa thể đặt tượng người khác...”! Cần phải nói thẳng: còn có những ý kiến ấu trĩ như vậy thì văn hóa không thể phát triển. Xin được nhắc rằng, cụ Phan là bạn đồng niên với cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Huy, thân phụ nhà cách mạng Nguyễn Ái Quốc; và từ 3/4 thế kỷ trước, Nguyễn Ái Quốc đã viết những dòng biểu lộ lòng kính mộ của mình đối với một chí sĩ thuộc thế hệ cha anh: “Phan Bội Châu, bậc anh hùng, vị thiên sứ, đấng xả thân vì độc lập, được 20 triệu con người trong vòng nô lệ tôn sùng...” Xét về khía cạnh chính trị thì việc đưa tượng cụ Phan ra một vị trí rộng rãi thoáng đãng hơn là cách thực hiện tích cực Nghị quyết 5 của Đảng. Xin đừng cho là tôi cố “nói lấy được”. Đưa bức tượng ra chỗ đông người qua lại, nhiều người biết đến, chính là việc phổ biến rộng rãi các tác phẩm nghệ thuật có giá trị, bảo đảm quyền hưởng thụ văn hóa của công chúng đông đảo, đồng thời góp phần vào việc giáo dục truyền thống cách mạng. Huế giải phóng đã hơn một phần tư thế kỷ, đã bước sang thiên niên kỷ mới, không lẽ một “vấn đề cũ” như thế cứ bị treo lại mãi?
“Nghệ thuật không lời” cần được “tiếp âm” còn là số phận những galery và những bức tranh có giá trị của Huế. Sau galery Bội Trân ở Sài Gòn Morin, Lê Quý Long ở đường Lý Thường Kiệt..., họa sĩ Dương Đình Sang vừa mở galery khá sang trọng ở cùng địa chỉ Sông Hương (số 5 Phạm Hồng Thái). Cũng như vườn tượng quốc tế, hình như chưa có cuốn sách hướng dẫn du lịch thông dụng nào ghi địa chỉ các galery. Các họa sĩ Lê Quý Long, Đường Đình Sang cho biết: Khách ghé lại, chẳng qua đi dạo phố, tình cờ thấy, vào xem, nên số lượng bán được rất ít. Tôi hỏi: “Sao các anh  không in những tờ quảng cáo rồi xin được “đính” vào một chỗ nào đó ở phòng tiếp tân các khách sạn lớn như Hương Giang, Ceintury, Lê Lợi...?” Trả lời: “Không thật quen biết, dễ gì họ cho!...”
Một sự thật ai cũng công nhận: kể từ sau 1975, nghệ thuật tạo hình - môn “nghệ thuật không lời” đã phát triển nhanh chóng, các nghệ sĩ đã sáng tạo được nhiều tác phẩm có giá trị. Tuy vậy, do nhiều điều kiện khách quan, việc tiêu thụ sản phẩm tác phẩm khó khăn hơn ở Hà Nội hay T.P. Hồ Chí Minh, nên khả năng để tái sản xuất, nâng cao tay nghề bị hạn chế. Cùng với việc mở rộng phương thức quảng bá cho các công trình nghệ thuật, các galery, với mối quan hệ gắn bó Hà Nội-Huế-Sài Gòn, thiết nghĩ tổ chức Hội chuyên ngành ở Huế nên chủ động ký kết hợp tác với các Hội ở Hà Nội và T.P. Hồ Chí Minh việc tổ chức triễn lãm định kỳ mỗi năm vài lần cho từng nhóm tác giả, thay vì để các tác giả tự xoay chạy một cách vất vả như lâu nay.
Việc “tiếp âm” cho bộ môn “nghệ thuật không lời” còn một khía cạnh khác, 5 năm trước, tôi đã một lần nêu lên mặt báo, nay nhân kỷ niệm 26 năm giải phóng Huế và năm mở đầu thiên niên kỷ mới vào lúc Thành Phố và Tỉnh đang triển khai Nghị quyết Đại hội Đảng nhiệm kỳ mới, xin được nhắc lại: Huế cần sớm có một Nhà Bảo tàng Mỹ thuật! Tôi chợt nghĩ: Giá như việc này được quyết định sớm từ mươi, mười lăm năm trước thì bây giờ chúng ta đã có thêm một địa chỉ văn hóa mới làm sang trọng thêm cho Huế với những tác phẩm tiêu biểu của những Tôn Thất Đào, Phạm Đăng Trí, Tôn Thất Văn, Trịnh Công Sơn, Vĩnh Phối, Đỗ Kỳ Hoàng... và rất nhiều tên tuổi khác. Nghĩ đến những tác phẩm ấy nay không biết đang “phiêu dạt” nơi đâu, thật là tiếc! Cuộc đời những tác phẩm có giá trị dài hơn cuộc đời người nghệ sĩ và nghệ sĩ sẽ sống mãi với những tác phẩm đó, nếu như có Nhà Bảo tàng!
Hẳn sẽ có người hỏi: Tiền ở đâu ư? - Xin cứ “kiểm kê” các tòa nhà vừa xây dựng rất “đàng hoàng” ở Huế trong mấy năm qua, sẽ thấy còn rất nhiều phòng rộng để trống hoặc rất ít sử dụng. Vấn đề là cách nhìn của người có quyền phân phối sử dụng đồng tiền mà thôi!
Nói thật vắn tắt, thiên hạ biết đến Huế chỉ vì Huế đẹp! Một ngành nghệ thuật chỉ làm đẹp thêm cho Huế thì tiếc gì...
                                                                     Trường An, 20/3/2001

NguyỄn KhẮc Phê
(nguồn: TCSH số 146 - 04 - 2001)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • Gần đây, khi Đảng ta chứng tỏ sự quan tâm của mình đối với đội ngũ trí thức thì trong dư luận cũng đã kịp thời có những phản ứng cộng hưởng. Điều mà chúng tôi lĩnh hội được gồm 3 câu hỏi tưởng chừng như "biết rồi khổ lắm nói mãi" nhưng lại không hẳn thế. Nó vẫn mới, vẫn nóng hổi vì sự tuyệt đối của qui luật vận động cũng như vì tính cập nhật, tính ứng dụng của đời sống. Chúng tôi xin được nêu ra và cùng bàn, cùng trao đổi cả 3 vấn đề.

  • Trí thức là những người mà lao động hàng ngày của họ là lao động trí óc, sản phẩm của họ làm ra là những sản phẩm trí tuệ, nhưng sản phẩm ấy phải là những sản phẩm có ích cho xã hội...

  • Ở Huế ngày xưa, người học trò nào cũng có một “Tủ sách Học trò” riêng tư cho mình và nhà nào cũng có một “Tủ sách Gia đình” để dùng chung trong nhà. Người Huế rất trọng học vấn, rất trọng sự hiểu biết nên rất trọng sách. Vì vậy, họ cất sách rất kỹ. Họ thường cất sách để làm kỷ niệm riêng tư cho mình về sau đã đành mà họ còn cất sách để dành cho đám đàn em con cháu của họ trong gia đình, dùng mà học sau nầy. Người Huế nào cũng đều cùng một suy nghĩ là ở đời, muốn vươn lên cao thì phải học và đã học thì phải cần sách. Đối với họ, sách quý là vậy. Lễ giáo Khổng Mạnh xưa cũng đã đòi hỏi mỗi người Huế thấy tờ giấy nào rớt dưới đất mà có viết chữ Hán “bên trên” là phải cúi xuống lượm lên để cất giữ “kẻo tội Trời”! Người xưa cũng như họ, không muốn thấy chữ nghĩa của Thánh hiền bị chà đạp dưới chân.

  • 1. Trung tâm văn hóa tôi muốn đề cập ở đây là thành phố Huế của tỉnh Thừa Thiên Huế. Đã là một Trung tâm văn hóa thì bao giờ cũng quy tụ nhiều nhân tài lớn, trên nhiều lĩnh vực, từ mọi miền đất nước, thậm chí từ cả ngoài nước, trải qua nhiều thế hệ, nhiều thử thách khó khăn mới vun đắp lên nổi một truyền thống, mà có được truyền thống văn hóa lại càng khó khăn hơn. Trong bài viết này tôi chưa đề cập tới những nhà khoa học, những nhà văn hóa và văn nghệ sĩ xuất sắc đang sống và hoạt động tại Thừa Thiên Huế, mà tôi chỉ muốn nói tới chủ yếu các vị đã qua đời nhưng đã để lại dấu ấn sâu đậm, lâu dài cho mảnh đất này, góp phần quan trọng hình thành nên truyền thống văn hóa Huế.

  • Trên thế giới có nhiều nền văn hóa khác nhau. Trong mỗi nước, ngoài mẫu số chung về nền văn hóa của cả dân tộc, còn có văn hóa vùng miền được phân định căn cứ vào đặc điểm nhân văn riêng của từng nơi. Nơi nào có được tính cách nhân văn đặc thù thì nơi ấy có văn hóa địa phương hay văn hóa bản địa. Một từ mà các nhà văn hóa học năng sử dụng khi đề cập đến lĩnh vực này là “bản sắc”. Nếu dùng từ bản sắc làm tiêu chí để nhận diện văn hóa thì Việt Nam có nền văn hóa riêng của mình, trong đó có văn hóa Huế.

  • Tôi quê Hà Tĩnh, nhưng lại sinh ra ở Huế, khi ông cụ tôi ngồi ghế Phủ Doãn, tức là “sếp” cái cơ quan đóng bên bờ sông Hương ở giữa Bệnh viện Trung ương Huế và Trường Hai Bà Trưng - Đồng Khánh xưa, nay đang được xây dựng to đẹp đàng hoàng gấp nhiều lần ngày trước. (Thời Nguyễn phong kiến lạc hậu, nhưng lại có quy chế chỉ những người đậu đạt cao và thường là người ngoại tỉnh mới được ngồi ghế Phủ Doãn để vừa có uy tín, học thức đối thoại được với quan chức trong Triều, vừa tránh tệ bênh che hay cho người bà con họ hàng chiếm giữ những chức vụ béo bở. Nói dài dòng một chút như thế vì nhiều bạn trẻ thời nay không biết “Phủ Doãn” là chức gì; gọi là “Tỉnh trưởng” cũng không thật đúng vì chức Phủ Doãn “oai” hơn, do Huế là kinh đô, tuy quyền hành thực sự người Pháp nắm hầu hết).

  • *Từ tâm thức kính sợ trời đất đến lễ tế Giao: Từ buổi bình minh của nhân loại, thiên nhiên hoang sơ rộng lớn và đầy bất trắc, với những hiện tượng lạ kỳ mưa gió, lũ lụt, sấm chớp, bão tố... đã gieo vào lòng người nhiều ấn tượng hãi hùng, lo sợ. Bắt nguồn từ đó, dần dần trong lịch sử đã hình thành tập tục thờ trời, thờ đất, thờ thần linh ma quỷ. Đó là nơi trú ẩn tạo cảm giác an toàn cho con người thuở sơ khai. Ở phương Đông, tập tục thờ cúng trời đất, thần linh gắn liền với việc thờ cúng tổ tiên, ông bà, phổ biến từ trong gia đình đến thôn xóm, làng xã. Khi chế độ quân chủ hình thành, một số triều đình đã xây dựng những “điển lệ” quy định việc thờ cúng trời đất, thần linh, với những nghi thức trang trọng, vừa biểu thị quyền uy tối thượng của nhà vua, vừa thể hiện khát vọng mong cầu quốc thái dân an, thiên hạ thái bình, phong hoà vũ thuận của muôn dân.

  • Sông Hương thuộc loại nhỏ của Việt Nam, nhưng với Thừa Thiên Huế có thể nói là “tất cả”. Hệ thống sông Hương cung cấp nước, tạo môi trường để phát triển gần như toàn bộ nền kinh tế - xã hội của Thừa Thiên Huế, đặc biệt sông Hương còn là biểu tượng của Huế, hai bên bờ mang nặng di sản văn hoá nhân loại. Nhưng đồng thời nó cũng đưa lại những trận lụt lớn vào mùa mưa, nhiễm mặn vào mùa hè...

  • Huế được Chính phủ xác định là một trong 5 thành phố cấp quốc gia, nằm trong khu vực kinh tế trọng điểm của miền Trung, cơ cấu kinh tế từng bước chuyển dịch theo hướng công nghiệp, dịch vụ du lịch. Quá trình phát triển đô thị, Huế đồng thời cũng đứng trước những thử thách mới, còn nhiều bất cập nhưng Huế vẫn giữ được nét kiến trúc riêng. Hình ảnh một thành phố mà kiến trúc và thiên nhiên hoà quyện, phải chăng đó là bản sắc Huế, khó trộn lẫn với bất kỳ một đô thị nào khác trong cả nước.

  • I. Toàn cầu hóa và lý luận văn học: I.1. “Toàn cầu hóa” làm cho “thế giới trở nên phẳng” (Thomas F.Fredman). Lý luận văn học là một lĩnh vực khoa học nhằm cắt nghĩa, lý giải, khái quát văn chương, đặt trong khung cảnh đó, nó cũng được “thế giới hóa”, tính toàn cầu hóa này tạo nên một mặt bằng chung, hình thành một ngôn ngữ chung. Từ đó mới có sự đối thoại, tiếp biến học hỏi lẫn nhau giữa các nền lý luận của các châu lục, quốc gia tạo nên một thể thống nhất trong đa dạng.

  • Đêm Nguyên tiêu 15 tháng giêng Quý Mùi 2003, thực hiện chủ trương của Hội Nhà văn Việt Nam, Hội Văn học Nghệ thuật Thừa Thiên Huế, Chi hội Nhà văn Việt Nam tại TTH đã tổ chức trên sông Hương một đêm thơ rất tuyệt vời. Ban tổ chức cho biết Hội Nhà văn Việt Nam đã được phép quyết định kể từ năm nay lấy ngày 15 tháng giêng âm lịch hằng năm làm Ngày Thơ Việt Nam. Quyết định ấy lay động tâm trí tôi vốn đang ưu tư với Huế Thành phố Festival, thay vì đọc thơ, trong đêm Nguyên tiêu ấy tôi đã phác họa sơ lược về một Festival thơ. Không ngờ ý kiến của tôi được Đêm thơ Nguyên tiêu hưởng ứng và các nhà thơ đã đề nghị tôi nên thực hiện một Hồ sơ cho Festival Thơ.

  • Trí thức trong bất cứ thời đại nào và ở đâu cũng là một nguồn lực quan trọng, là sức mạnh tinh thần nối kết truyền thống của dân tộc với thành tựu trí tuệ của thời đại. Khi nguồn lực trí tuệ của đội ngũ trí thức gắn kết được với sức mạnh cộng đồng thì xã hội sẽ có những chuyển biến tích cực. Ngược lại, nguồn lực trí tuệ không được phát huy thì năng lực phát triển của xã hội sẽ bị suy thoái. Thừa Thiên Huế có một thời là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hoá của Đàng Trong và trở thành kinh đô của cả nước. Vì thế Huế đã từng là nơi hội tụ nhiều thế hệ trí thức tinh hoa của đất nuớc. Lớp trí thức lớn lên tại Thừa Thiên Huế có điều kiện tiếp cận với những thiết chế và sinh hoạt văn hoá, học thuật có tầm cở quốc gia (Quốc Tử Giám, Quốc Sử Quán, Hàn Lâm Viện, Thái Y Viện. Khâm Thiên Giám.. ), năng lực trí tuệ của trí thức ở kinh kỳ có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển, cả trên lĩnh vực tư duy sáng tạo và quản lý, thực hành.

  • I. Sự hình thành và phát triển hệ thống đường phố ở Huế: Trước khi Huế được chọn để xây dựng kinh đô của nước Việt Nam thống nhất, đất Phú Xuân - Huế kể từ năm 1738 đã là nơi đóng đô thành văn vật của xứ Đàng Trong dưới thời chúa Nguyễn Phúc Khoát. Rồi Phú Xuân lại trở thành kinh đô Đại Việt của nhà Tây Sơn. Năm 1802, Nguyễn Phúc Ánh toàn thắng quân Tây Sơn; từ Thăng Long ông trở về Phú Xuân, chọn lại đất ấy, lấy ngày lành, lên ngôi vua, xưng hiệu là Gia Long. Tháng 5 năm 1803, nhà vua sai người ra ngoài bốn mặt thành Phú Xuân, xem xét thực địa, định giới hạn để xây dựng kinh thành mới. Trên cơ sở mặt bằng thành Phú Xuân cũ, lấy thêm phần đất của 8 làng cổ lân cận, mở rộng diện tích để xây dựng nên một kinh thành rộng lớn hơn trước. Cùng với việc xây dựng thành quách, cung điện, nha lại, sở ty... thì đường sá trong kinh thành cũng được thiết lập.

  • Thừa Thiên Huế là thủ phủ Đàng Trong thời các chúa Nguyễn, là kinh đô của cả nước dưới thời Tây Sơn và triều Nguyễn, nay là cố đô, một trong những trung tâm văn hoá và du lịch quan trọng của Việt Nam , trải qua quá trình đô thị hoá, vừa mang dấu ấn của một đô thị cổ phương Đông, vừa có đặc trưng của một đô thị mới. Để góp phần định hướng phát triển và tổ chức quản lý vùng đất nầy, một trong những việc cần làm là nên soát xét lại kết quả của quá trình đô thị hóa để lựa chọn những giải pháp quản lý phù hợp.

  • Trong quá khứ, mảnh đất Phú Xuân - Huế đã được chọn để đóng đô thành của các chúa Nguyễn ở Đàng Trong, rồi đến kinh đô Đại Việt của nhà Tây Sơn Nguyễn Huệ, sau nữa là kinh đô Việt Nam thống nhất dưới thời họ Nguyễn Phúc trị vì và cuối cùng trở thành cố đô từ sau Cách mạng Tháng 8.1945. Huế đã và đang là thành phố Festival - một thành phố lễ hội mang nhiều thành tố văn hóa đặc trưng của Việt Nam theo một quy chế đặc biệt. Để có cái nhìn khách quan về lịch sử, thiết nghĩ, chúng ta hãy điểm lại vài nét quá trình đi lên của thành phố Huế để trở thành đô thị loại I - đô thị đặc biệt hôm nay.

  • Hội nghị cán bộ Việt Minh mở rộng vào cuối tháng 4 đầu tháng 5/1945 diễn ra trên đầm Cầu Hai đề ra chủ trương lớn để phát triển phong trào cách mạng tỉnh Thừa Thiên Huế, chuẩn bị cùng cả nước khởi nghĩa cướp chính quyền khi có thời cơ. Sau hội nghị, phong trào cách mạng phát triển đều khắp trong toàn tỉnh. Đầu tháng 8, được tin quân đội Nhật bị quân đồng minh đánh bại ở nhiều nơi, nhất là ở Mãn Châu Trung Quốc, Thường vụ Việt Minh dự đoán ngày Nhật theo chân phát xít Đức bị đánh bại không còn xa, đã quyết định đẩy mạnh chuẩn bị khởi nghĩa. Giữa tháng 8 được tin Nhật Hoàng sẵn sàng đầu hàng, Thường vụ Việt Minh chỉ đạo các huyện khởi nghĩa. Sau khi tất cả các huyện phụ cận Huế khởi nghĩa thành công, ngày 20/8 Thường vụ Việt Minh triệu tập 6 huyện bàn quyết định chọn ngày 23.8.1945 là ngày khởi nghĩa giành chính quyền. Cũng ngay chiều ngày 20.8.1945 phái đoàn Trung ương có cụ Hồ Tùng Mậu, anh Nguyễn Duy Trinh và anh Tố Hữu đã đến Huế, vì Huế là thủ đô của chính quyền bù nhìn lúc bấy giờ. Khởi nghĩa ở Huế mang sắc thái đặc biệt có tính chất quốc gia. Ta giành lại chính quyền không phải từ tay một tỉnh trưởng mà là từ triều đình nhà Nguyễn - Bảo Đại ông vua cuối cùng, bên cạnh Bảo Đại lại có cả bộ máy chính quyền Trần Trọng Kim do Nhật lập ra. May mắn thay đoàn phái bộ Trung ương vào kịp thời nên vẫn giữ nguyên ngày khởi nghĩa (23.8.1945). Đêm 20.8.1945 cuộc họp của phái đoàn Trung ương và Thường vụ Tỉnh ủy thông qua kế hoạch khởi nghĩa của tỉnh và cử ra Ủy ban khởi nghĩa gồm có: anh Tố hữu là Chủ tịch đại diện cho Trung ương, tôi làm Phó Chủ tịch (PCT) đại diện cho Đảng bộ và Mặt trận Việt Minh địa phương cùng một số ủy viên: Lê Tự Đồng, Lê Khánh Khang, Hoàng Phương Thảo, Nguyễn Sơn...

  • Ba mươi năm trước, cùng với lực lượng cách mạng, những người làm Báo Cờ Giải Phóng của Đảng bộ Thừa Thiên Huế sôi nổi chuẩn bị số báo đặc biệt và có mặt trong đoàn quân tiến về giải phóng quê hương. Tháng 10/1974, chúng tôi được tham gia hội nghị Tỉnh ủy mở rộng bàn về đẩy mạnh nhiệm vụ đánh kế hoạch bình định, mở rộng vùng giải phóng nông thôn đồng bằng, phối hợp có hiệu quả với các chiến trường, góp phần giải phóng miền Nam, Thường vụ Tỉnh ủy giao nhiệm vụ cho Báo Cờ Giải Phóng ra số báo đặc biệt, nội dung phong phú, hình thức hấp dẫn để chuyển tải khí thế cách mạng miền Nam và trong tỉnh, đưa mệnh lệnh, lời kêu gọi của Mặt trận Dân tộc Giải phóng Thừa Thiên Huế và các chính sách của Mặt trận đối với vùng giải phóng.

  • Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước vĩ đại của dân tộc, lực lượng an ninh huyện Phú Vang đã nêu cao chủ nghĩa anh hùng cách mạng, với 95 thương binh, 135 liệt sĩ và không có một cán bộ, chiến sĩ nào đầu hàng phản bội, lực lượng an ninh huyện Phú Vang và 4 cán bộ an ninh huyện đã được Đảng, Nhà nước phong tặng danh hiệu cao quý “Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân”.

  • Trong mọi thời đại Hoàng đế và kẻ sĩ có mối quan hệ đặc biệt. Đó là mối quan hệ giữa người cầm quyền và người trí thức có nhân cách và tài năng. Khi Hoàng đế là minh quân thì thu phục được nhiều kẻ sĩ, khi Hoàng đế là hôn quân thì chỉ có bọn xu nịnh bất tài trục lợi bên mình còn kẻ sĩ bị gạt ra ngoài thậm chí có khi bị giết hại. Lịch sử bao triều đại đã chứng minh điều đó. Mối quan hệ giữa Hoàng đế Quang Trung Nguyễn Huệ và La Sơn Phu tử Nguyễn Thiếp của thế kỷ XVIII là cuộc hội ngộ lớn, mang đến nhiều lợi ích cho quốc gia và có ý nghĩa cho muôn đời. Nguyễn Huệ và Nguyễn Thiếp đều sống trong bối cảnh triều Lê suy tàn, chúa Trịnh lộng hành, chúa Nguyễn mới nổi dậy. Sau gần 300 năm hết nội chiến Lê Mạc đến Trịnh Nguyễn phân tranh đời sống nhân dân vô cùng khốn khổ. Trong bối cảnh đó Nguyễn Huệ cùng anh là Nguyễn Nhạc dựng cờ khởi nghĩa, Nguyễn Thiếp cáo quan về ở ẩn.

  • Năm 2008 là một năm khá kỳ lạ và đặc biệt của loài người. Nửa năm đầu, cả nhân loại thăng hoa với các chỉ số chi tiêu mà ngay cả các chiến lược gia kinh tế cũng phải bàng hoàng. Nửa năm cuối, quả bóng phát triển, ổn định bị lưỡi dao oan nghiệt của khủng hoảng đâm thủng nhanh đến nỗi hàng ngàn đại gia bị phá sản rồi, vẫn chưa lý giải nổi hai chữ “tại sao”. Bất ổn và đổi thay còn chóng mặt hơn cả sự thay đổi của những đám mây. Không phải ngẫu nhiên mà người Nhật lại chọn từ “thay đổi” (kanji) là từ của năm, vì B. Obama đã chiến thắng đối thủ bằng chính từ này (change)...