Ca dao nói về rượu

14:40 02/02/2010
TRIỀU NGUYÊN Trong những dịp cúng lễ, lễ lạt, hiếu hỉ, và đặc biệt là vào dịp Tết, rượu thường được nhắc đến, và có khi trở thành quan trọng hàng đầu: "Vô tửu bất thành lễ".

Ảnh: Internet

Rượu lại thường được cho là thứ không thể thiếu với giới tao nhân mặc khách. "Cầm kì thi tửu", "bầu rượu túi thơ", Lưu Linh viết "Tửu đức tụng" (tán tụng công đức của làng rượu), Lí Bạch không chỉ là “thi tiên" mà còn được gọi là “tửu tiên", Phạm Thái, Nguyễn Công Trứ, Cao Ba Quát... đều sành rượu và có thơ ca ngợi rượu, là vài minh chứng.

Trong kho tàng ca dao, người viết bước đầu đã trích ra được 42 bài có đề cập đến rượu. Nội dung của những bài ca dao này hoặc nhìn nhận về đặc tính của rượu, hoặc gắn rượu với lễ, với cuộc sống lạc thú, hoặc rượu được ví với sắc đẹp của người phụ nữ, và cuối cùng, là sự cảnh cáo về những tác hại của rượu.
Dưới đây là những trình bày về các nội dung vừa nói:

1. Đặc tính của rượu

Rượu sở dĩ ngon là nhờ tửu tinh (alcool), được gọi là men:
Rượu ngon bởi vì men nồng
Người khôn bởi vị giống dòng mới khôn.

Chất men của rượu được so sánh với các gen của dòng giống, là một cách nhìn nhận đi thẳng vào bản chất sự vật.
Chất men ấy, nếu được cất giữ kĩ, thì bền vững với thời gian:
Rượu ngon chắt để bàn thờ
Ba bốn năm không lạt (nhạt), sao giờ lạt đi?

và không phụ thuộc vào vật chứa:
Rượu ngon bất luận be sành,
Áo rách khéo vá hơn lành vụng may
.

2. Rượu gắn với lễ

Nghi lễ mà ca dao thường nêu hơn cả là cưới hỏi. Rượu (cùng với cau trầu) là lễ vật bắt buộc khi cưới hỏi. Thử đọc lời đối đáp sau của một đôi trai gái:
- Anh có thương em thì lo một buồng cau cho tốt, một hũ rượu cho đầy,
Đặt lên bàn thượng, hạ xuống bàn xây,
Chàng đứng đó, thiếp đứng đây,
Lẽ mô thầy với mẹ lại không kết nghĩa sum vầy cho con?

- Tay anh ôm hũ rượu, buồng cau,
Đi ngả đường sau, thầy mẹ chê khó, đi ngả cửa ngõ, chú bác chê nghèo,
Nhắm chừng duyên nợ cheo leo,
Sóng to, thuyền nặng không biết chống chèo có đặng (được) không.

Cô gái tưởng tượng nêu một viễn cảnh êm thấm, thuận chiều, trong lúc chàng trai tỏ ra thực tế hơn trước trở lực, do cái nghèo tạo ra.

Giả như cô gái thơ ngây và có tình cảm trong sáng kia thuyết phục được bố mẹ mình chấp thuận cuộc hôn nhân do cô chủ động, thì việc tiếp theo sẽ là:
Rượu lưu li chân quỳ tay rót,
Cha mẹ uống rồi dời gót theo anh
.

Đôi vợ chồng mới, hoặc trai gái đã đính hôn, cũng dùng miệng trầu, chén rượu khi trao lời hẹn ước thủy chung:
Ăn một miếng trầu, năm ba lời dặn,
Uống một chén rượu, năm bảy lời giao,
Anh chớ nghe ai sóng bổ ba đào,
Em đây quyết giữ niềm tiết hạnh, anh chớ lãng xao em buồn.
Và dưới đây là chén rượu mời bạn tương tri:
Rượu kim lan ve vàng chước tửu,
Em mở miệng chào bạn hữu tương tri
Bá Nha vắng mặt Tử Kỳ
Ôm đờn luống chịu sầu bi một mình
.

3. Rượu gắn với lạc thú

Trước hết, rượu (ở đây, hiểu theo "người uống rượu") thể hiện cuộc sống sung túc, an nhàn, biết làm chủ đời người:

Lật đật thì đất cũng đè,
Những người thong thả, rượu chè quanh năm

hay:
Rượu cúc sánh với trà lan,
Khi xem hoa nở, khi than Thúy Kiều.
và:
Rượu nằm trong nhạo chờ nem
Anh nằm phòng vắng chờ em lâu về
.

Chính vì sự thể hiện ấy mà giới phụ nữ (vốn ít người biết uống rượu) đã ít nhiều đồng tình chuyện “nam vô tửu như kì vô phong" (đàn ông không uống rượu như cờ không có gió). Cho nên có người đã:

Đốt than nướng cá cho vàng,
Lấy tiền mua rượu cho chàng uống chơi.

có người còn "rộng lòng" hơn:
Khuyên anh cờ bạc thời chừa,
Rượu chè, trai gái say sưa mặc lòng.


Kế đến, giới mày râu thì xem mình độc quyền về rượu, và không chút ngần ngại khi nói ra điều này:
Còn trời, còn nước còn non.
Còn có bạn rượu, anh còn say sưa
.

hay:
Con tằm bối rối vì tơ;
Anh say sưa vì rượu, em ngẩn ngơ vì tình.


Thậm chí, có anh còn móc tiền vợ để uống:
Rượu chè, cờ bạc lu bù,
Hết tiền đã có mẹ cu bán hàng
.

Sau cùng, lạc thú với rượu không riêng bậc văn nhân tài tử mà cả hạng “tửu nang phạn đại" (đãy rượu túi cơm) và những người cùng uống, gọi là bạn rượu để thêm vui, theo luật "trà tam, tửu tứ" (uống trà, uống rượu thì thường ba, bốn người cùng uống mới thú). Có lúc không phải “tửu tứ" mà "tửu đảng", “tửu đồ" (những tên bợm nhậu):
Có chồng say như trong chay ngoài bội,
Ngó vô nhà như hội Tần Vương!


4. Rượu và người đẹp đều gây say

Hán Việt có từ “tửu sắc" nói lên mối quan hệ tuy hai mà một giữa rượu và gái, đứng đầu trong thú ăn chơi (của người đàn ông), tiếng Việt thuần túy không có một từ như vậy. Trong ca dao, lối nói phổ biến là so sánh điểm gây say giống nhau giữa rượu và người phụ nữ:
Rượu ngon chưa uống đã say,
Lựu, lan chưa bẻ đã bay mùi nồng.
và:
Đèo bồng mang tiếng thị phi
Bầu không có rượu lấy gì mà say?
hoặc:
Rượu ngon cái cặn cũng ngon,
Thương em chẳng luận chồng con mấy đời.
hoặc nữa:
Rượu từ trong hũ rót ra,
Để lâu cũng nhạt nữa là duyên em.

Cả chuyện “say ngầm", “say ngấm" của rượu cũng được vận dụng để ví với nét hạnh của nữ giới (trong việc chinh phục đàn ông):
Rượu say vì bởi men nồng,
Vợ mà biết ở, ắt chồng phải theo.

hay:
Rượu sen càng nhắp càng say,
Càng yêu vì nết, càng say vì tình
Đầy vơi chúc một chén quỳnh
Vì duyên nên uống, vì tình nên say...

5. Đề phòng những tác hại của rượu

Không thể có chuyện uống quá tửu lượng cho phép (đối với mỗi người) mà vẫn không say, dù đó là rượu nhạt:
Rượu nhạt uống lắm cũng say,
Người khôn nói lắm dẫu hay cũng nhàm.
hay rượu dở:
Rượu không ngon uống lắm cũng say,
Áo rách có chỉ vá may lại lành.

Mỗi khi đã bị say thì không đủ sáng suốt để nhận rõ cái lộn xộn ở bàn tiệc:
Rượu không say, sao chén ngã xe lăn,
Không thương người đó, sao năng tới nhà?
ở lập luận:
Rượu nào rượu lại say người,
Bớ người say rượu, chớ cười rượu say.

Điều thường gặp là “rượu vào, lời ra", nói nhiều, nói dài nhưng không ý thức hết điều đã nói, gây chuyện “đa ngon đa quá" (nhiều lời thì càng nhiều lầm lỗi), lắm lúc tạo nên hậu quả nghiêm trọng. Chí ít, cũng phiền nhiễu đến người xung quanh:
ở đời chẳng biết sợ ai,
Sợ thằng say rượu nói dai tối ngày.

Và không mấy ai tin lời người say, cho dù có nói hay như thế này:
Say thời, say ngãi say tình,
Say chi chén rượu mà mình nói say!

Ngoài cái hại của việc say đã nói, người đắm đuối vì rượu mà bỏ bê làm ăn, sẽ dễ lâm vào cảnh nghèo khổ:
Giàu đâu đến kẻ ngủ trưa,
Sang đâu đến kẻ say sưa tối ngày.

Những trình bày trên cho thấy, ca dao đã đề cập khá đầy đủ về rượu. Khi gắn với nghi lễ, rượu tượng trưng cho việc chuẩn thuận, thề nguyền; khi gắn với lạc thú, rượu như một vị chủ không thể thiếu; khi xét đến người đẹp, chỉ có rượu mới tương xứng để đối sánh. Nhưng tác hại của rượu cũng không nhỏ nếu người uống không biết dừng lại ở mức cần dừng.

Sắp xếp theo nội dung bàn về rượu của ca dao, ở một chừng mực nào đó, chúng ta cũng nhận ra phong tục, quan niệm của người Việt về một thức uống có lịch sử lâu đời và mang tính cách toàn cầu này.

T.N
(120/02-99)



 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • NGUYỄN DƯ

    Nhân lúc rảnh rỗi, mời các bạn cùng đọc truyện Trầu cau. Bàn chơi cho vui.

  • TRỊNH SÂM

    Trải qua biết bao thời đại, mèo đã trở thành con vật quen thuộc trong mỗi gia đình Việt Nam.

  • NGUYỄN ĐỨC DƯƠNG

    Làm thế nào để biết một biểu thức ngôn từ [BTNT] do dân gian sáng tác ra là một đơn vị tục ngữ? Chứ không phải là thành ngữ hay ca dao? Mục đích chính của bài này là đi tìm một câu trả lời thỏa đáng cho mấy câu hỏi vừa nêu.

  • NGUYỄN ĐỨC DÂN Có một giai thoại về Nguyễn Khuyến như sau: Làng Cổ Ngựa có ngôi đền thờ thánh mẫu thu hút khá nhiều người đến lễ bái. Nhằm kiếm chác đám người mê tín, hào lý trong làng xuất quỹ xây lại đền to hơn, đẹp hơn.

  • Mai Văn Tấn tên thật là Mai Văn Kế. Sinh ngày 12-9-1931 tại Lệ Ninh Bình Trị Thiên. Hội viên Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam.

  • THANH TRẮC NGUYỄN VĂN1. Tiểu Hổ gặp họa

  • TRẦN NGUYỄN KHÁNH PHONGTừ trước đến nay, không có lễ tục nào được nhắc đến nhiều trong truyện cổ của người Pacô bằng tục Pộôc xu (Đi sim), đây là một nét văn hóa truyền thống từ xưa của người Pacô. Mặc dầu đến nay do lối sống hiện đại nên nhiều nét văn hóa truyền thống mất đi, song không vì thế mà chúng ta quên nó. Đâu đó trong cuộc sống cộng đồng của người Pacô ngày nay vẫn còn nhiều câu chuyện kể về tục này. Nhân dịp xuân về xin được nêu ra đây nét đẹp trong lễ tục quan trọng đó.

  • L.T.S: Dân tộc Kơ-tu là một trong bốn dân tộc sống ở tỉnh Bình Trị Thiên, tập trung ở vùng Nam Đông, huyện Phú Lộc. Trước đây dân tộc Kơ-tu đã sát cánh cùng các lực lượng giải phóng tiến hành cuộc đấu tranh anh dũng chống lại bè lũ Mỹ ngụy. Ngày nay, dân tộc Kơ-tu đang vững bước đi lên trong công cuộc lao động sản xuất, xây dựng cuộc sống mới. Cũng như các dân tộc khác, người Kơ-tu không chỉ anh dũng trong chiến đấu, cần cù sáng tạo trong lao động sản xuất mà còn có một nền văn nghệ dân gian rất phong phú và độc đáo. Bài viết sau đây là một nét phác họa trong chương trình giới thiệu nền văn học dân gian các dân tộc ít người ở tỉnh Bình Trị Thiên của chúng tôi.

  • VĨNH QUYỀNTừ lâu điều kiện thiên nhiên cũng như điều kiện xã hội đều thuận lợi cho mối quan hệ giữa hai dòng thơ ca dân gian Bình Trị Thiên và Quảng Nam.

  • NGUYỄN TIẾN VĂNMột trong những câu ca dao rất thông dụng phổ biến nhưng không phải là đơn giản và dễ nắm bắt nội dung: “Không chồng mà chửa mới ngoan/ Có chồng mà chửa thế gian sự thường”. Ở đây mắt của câu này là chữ ngoan. Vậy ngoan là gì?

  • VĨNH QUYỀNMười hai con giáp, chuột đứng hàng đầu. Kể cũng lạ?Hình dạng bé nhỏ xấu xí, phẩm cách hèn hạ đáng khinh, thế mà chuột được người xưa xếp trước cả những con vật uy mãnh như hổ, linh hiển như rồng. Đã thế, năm Tý – với biểu tượng con chuột, còn là năm đầu của một kỷ, chu kỳ 60 năm.

  • LƯƠNG ANCũng như nhiều vùng khác trên đất nước Việt Nam, ở Bình Trị Thiên chúng ta, các danh lam hoặc các ngọn núi cao, các dòng sông lớn thường có một truyền thuyết dân gian dính với nguồn gốc của nó. Sông Thạch Hãn, con sông lớn nhất vùng Quảng Trị cũ, cũng vậy.

  • TRIỀU NGUYÊN1. Khái quátSở dĩ người nghe (đọc) truyện cười phát ra được tiếng cười, bởi vì lí trí, tình cảm của họ gặp phải điều không bình thường: thay vì họ tưởng cuối cùng nhân vật sẽ nói, sẽ làm điều “A”, thì hoá ra nhân vật đã nói, làm điều “B”, thậm chí “không A”. Tức trí tuệ, cảm xúc đã không lường trước, đã bị đánh lạc hướng trước đối tượng đang quan tâm. Và thông thường, càng lạ lẫm, bất ngờ, tiếng cười càng sảng khoái, thú vị.

  • VĂN NHĨĐường Trường Sơn huyền thoại đã đi vào sử thi như một bản anh hùng ca của thời đại Hồ Chí Minh. Nhiều bài thơ, bài hát viết về Trường Sơn đã vượt qua biên độ của thời gian mãi mãi rung động lòng người.

  • LAN PHƯƠNGKho tàng âm nhạc dân gian của dân tộc Thái vùng Tây Bắc rất phong phú và đa dạng. Bất cứ nơi đâu trong bản làng của người Thái đều có thể thấy có các làn điệu dân ca thể hiện rõ phong cách riêng của mỗi vùng mà nguyên nhân do sự truyền lại cho các thế hệ theo cách cảm thụ và rung động riêng của mỗi nghệ nhân. Trong đó không thể thiếu tiếng cây đàn tính tẩu.

  • TRIỀU NGUYÊN1. Một bộ phận truyện cổ tích sinh hoạt có yếu tố tạo ra tiếng cười đã bị nhầm lẫn là truyện cười. Sự nhầm lẫn này đã xảy ra ngay cả với những sách sưu tập được cho là nghiêm túc.

  • TRIỀU NGUYÊNCó một số bài ca dao dùng hình ảnh "đèn hạnh", xin dẫn ra dưới đây ít bài:(1)           Đêm khuya đèn hạnh thắp lên,                Vì chưng thương nhớ cho nên đi tìm.

  • PHAN XUÂN QUANGĐồng Tranh là một làng nổi tiếng trù phú một thời ở Quảng Nam. Làng này hiện còn lưu truyền một câu đối cổ có liên quan đến làng Gia Hội, Huế:Văn Đồng Tranh, võ Đồng Tranh, văn võ Đồng Tranh long hổ bảngQuân Gia Hội, thần Gia Hội, quân thần Gia Hội phụng hoàng trì.Câu đối này còn một số dị Bản, có khác một đôi chữ nhưng câu trên đây theo nhiều người là chính nhất và phổ biến hơn cả.

  • TRIỀU NGUYÊN  Từ ngữ cùng nghĩa là những từ ngữ gần nhau về ý nghĩa, nhưng khác nhau về âm thanh. Có ba kiểu cùng nghĩa trong tiếng Việt, là cùng nghĩa giữa từ ngữ thuần Việt (TV) với từ ngữ thuần Việt, cùng nghĩa giữa từ ngữ thuần Việt với từ ngữ Hán Việt (HV), và cùng nghĩa giữa từ ngữ Hán Việt với từ ngữ Hán Việt. Câu đối chơi chữ theo cách cùng nghĩa, có hai hình thức: tạo các từ ngữ cùng nghĩa xuất hiện trên cùng một văn bản ngắn; và cách cùng nghĩa có kết hợp với các hình thức chơi chữ khác.