Bút pháp ước lệ của Nguyễn Du qua cảnh Thuý Kiều đưa tiễn Thúc Sinh

15:13 10/03/2009
MAI VĂN HOANƯớc lệ được xem là một đặc điểm thi pháp của văn học Trung đại. Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du sử dụng khá nhiều bút pháp ước lệ. Có điều nhà thơ sử dụng một cách hết sức linh hoạt, sáng tạo nên tránh được sự sáo mòn, nhàm chán. Không những thế bút pháp ước lệ của Nguyễn Du còn góp phần diễn tả một cách tinh tế, sâu sắc tâm trạng nhân vật. Điều đó thể hiện rất rõ qua cảnh Thuý Kiều đưa tiễn Thúc Sinh về tự thú với Hoạn Thư.

Thường thường khi chia tay người ta hay nắm lấy áo nhau tỏ tình quyến luyến, bịn rịn. Níu áo dần dần trở thành một cách nói quen thuộc. “Chàng ơi, buông áo em ra/Để em đi chợ kẻo mà chợ trưa” (Ca dao). Trong buổi đưa tiễn, Kiều cũng níu áo chàng Thúc. Cho đến lúc chàng lên ngựa, nàng mới chịu “chia bào” (buông áo). Theo logic bình thường người này có buông áo, người kia mới lên được ngựa. Ở đây, Nguyễn Du cố ý sắp xếp ngược lại: “Người lên ngựa, kẻ chia bào”. Theo tôi đây là một chi tiết cần được quan tâm. Bởi vì qua cái chi tiết ngỡ như phi logic này, Nguyễn Du không chỉ thể hiện nỗi vấn vương, lưu luyến mà còn thể hiện được tâm trạng đầy lo lắng của Kiều. Nàng cố níu giữ Thúc Sinh cho đến giây phút cuối cùng. Kiều khuyên Thúc Sinh về tự thú với Hoạn Thư là mong muốn cuộc sống yên ổn lâu dài. Nhưng trong nửa năm chung sống, qua chàng Thúc, nàng đã biết ít nhiều về Hoạn Thư. Riêng cái uy con gái quan Thượng thư Bộ lại của Hoạn Thư cũng đã đủ cho Thuý Kiều e ngại. Nàng lo sợ mất chàng - mất cái chỗ dựa duy nhất giữa chốn “nước non quê người”, nàng lại sẽ rơi vào cảnh bơ vơ chân trời góc bể. Vì vậy, nàng cố níu giữ chàng ngay cả khi chàng đã lên ngựa. Bằng một chi tiết có tính ước lệ, Nguyễn Du đã phần nào diễn tả được cái tâm trạng “ngổn ngang trăm mối” của nàng Kiều.

Rừng phong lúc chớm thu lá dần ngã sang màu đỏ được nhắc đến khá nhiều trong thơ ca cổ điển Trung Hoa. Cái màu đỏ của lá phong mùa thu có tính ước lệ này qua tay thiên tài Nguyễn Du đã biến thành “màu quan san” - gợi sự xa xôi, cách trở. Phải thật hiểu tâm trạng bất an của Kiều khi chia tay Thúc Sinh, Nguyễn Du mới sáng tạo ra cái “màu quan san” độc đáo ấy. Với Kiều, việc Thúc Sinh về gặp Hoạn Thư nào có khác gì đi đến nơi xa xôi biên ải. Nếu theo lôgic bình thường thì lúc này rừng phong mới nhuốm “màu quan san” thôi. Nghĩa là lá phong đang ngã dần dần sang màu đỏ. Kiều tiễn đưa Thúc sinh lúc mới sang thu. Nhưng “nhuộm màu quan san” lại rất phù hợp với tâm trạng lo lắng, bất an của nàng Kiều lúc này. Nguyễn Du tả màu sắc qua tâm trạng. Chỉ thay một dấu từ “nhuốm” sang “nhuộm” mà cái “màu quan san” càng thêm xa xôi, cách trở. Đây cũng là một dụng ý nghệ thuật của Nguyễn Du chăng?

Thúc sinh đi rồi, Kiều cứ đứng nhìn theo mãi: “Dặm hồng bụi cuốn chinh an/Trông người đã khuất mấy ngàn dâu xanh”. Thường khi tả đoàn quân xuất trận mới có cảnh “dặm hồng bụi cuốn”. Trong “Binh xa hành” của Đỗ Phủ cùng với tiếng ngựa hí là cảnh cát bụi  bay ngút trời. Người chinh phu trong Chinh phụ ngâm: “Thét roi CầuVị ào ào gió thu”.  “Bụi cuốn” nghĩa là bụi mù trời, gió ào ào... Nguyễn Du tả Thúc Sinh đi về Vô Tích gặp Hoạn Thư chẳng khác gì đi ra chiến trận. Theo logic bình thường thì không thật đúng. Nửa năm ăn ở với người đẹp, giờ phải chia tay, chàng Thúc chắc bịn rịn lắm. Nếu có phi thì chàng cũng chỉ phi nước kiệu thôi. Làm gì có chuyện “bụi cuốn” mù trời như thế. Ngay cả khi chia tay Hoạn Thư, vừa lên ngựa chàng đã: “thẳng ruổi nước non quê người”, vẫn không thấy Nguyễn Du tả một tí bụi nào. Cho dù “thẳng ruổi” là phi rất nhanh, phi theo kiểu nước đại để mau về gặp lại nàng Kiều. Với tâm trạng háo hức, Thúc Sinh nhìn cái gì cũng đẹp: “Long lanh đáy nước in trời/Thành xây khói biếc, non phơi bóng vàng”.  Phi nước đại như thế thì lại không hề có một tí bụi nào. Còn phi nước kiệu lại “Dặm hồng bụi cuốn”? Đây chính là cảnh được nhìn qua tâm trạng đầy lo âu của nàng Kiều. Bụi chắc cũng có ít thôi, gió chắc cũng nhẹ thôi nhưng với nàng Kiều: chàng Thúc như đang đi vào nơi đầy bụi, đầy gió chẳng khác gì ra trận. Mà chàng Thúc đang “ra trận” thật. Bởi vì chàng sắp “chiến đấu” với Hoạn Thư - một cuộc chiến không cân sức giữa anh chồng non gan với bà vợ vừa đầy uy lực vừa đầy “mưu ma, chước quỉ” làm sao mà Kiều có thể yên tâm được. Một lần nữa ta hiểu thêm dụng ý nghệ thuật của Nguyễn Du qua một chi tiết tưởng như hết sức bình thường.

Sau khi đưa tiễn Thúc Sinh: “Người về chiếc bóng năm canh/Kẻ đi muôn dặm một mình xa xôi”, Kiều ngẩng lên trời và hốt hoảng nhìn thấy “vầng trăng ai xẻ làm đôi...”  Vầng trăng đầu tháng cũng được nhìn qua tâm trạng nàng Kiều, nàng đang linh cảm về một sự chia lìa, một sự “tan đàn sẻ nghé”. Ca dao cũng có câu tương tự: “Vầng trăng ai xẻ làm đôi/Đường trần ai vẽ ngược xuôi hỡi chàng?”. Sau này thi sĩ Hàn Mặc Tử cũng đau đớn thốt lên: “Đêm nay còn một nửa  trăng thôi/Một nửa  trăng ai cắn vỡ rồi?Ta nhớ người xa thương đứt ruột/Gió làm nên tội buổi chia phôi!” (“Một nửa trăng”). Nhưng theo tôi hai câu của Nguyễn Du mang nhiều tầng nghĩa hơn. Bởi vì trăng của Nguyễn Du dù có bị xẻ nhưng không chịu lìa: “Nửa in gối chiếc, nửa soi dặm trường”.  Phải chăng nhà thơ mượn hai nửa vầng trăng để bày tỏ niềm cảm thông sâu sắc của mình trước tình cảnh chia li của Thúc sinh - Thuý Kiều? Và phải chăng đó cũng là mong muốn của Kiều. Kiều nhờ một nửa trăng giúp chàng Thúc hiểu thấu tâm trạng lẻ loi cô đơn của mình, một nửa kia nàng muốn trăng thay nàng soi đường cho chàng? Qua tưởng tượng của Kiều con đường Thúc Sinh đang đi đầy gió, đầy bụi, đầy chông gai hiểm trở, Thúc Sinh thì “đơn thương độc mã”, ước gì nàng có thể ở bên cạnh chàng. Không có nàng “quân sư” làm sao Thúc Sinh có thể thắng được người đàn bà “cáo già” như Hoạn Thư? Những tầng nghĩa ấy có được là nhờ cách “nối mạng” tài tình của Nguyễn Du.

Rõ ràng bằng những chi tiết, những hình ảnh có tính ước lệ hết sức quen thuộc, Nguyễn Du đã biến hoá, đã nhào nặn trở thành những chi tiết nghệ thuật hết sức mới lạ, độc đáo. Nếu cứ theo logic bình thường ta tha hồ  bắt bẻ nhà thơ. Song sáng tạo nghệ thuật có quy luật riêng của nó. Cái tưởng như phi lí lại rất có lí nếu ta hiểu dụng ý của tác giả. Lạ hoá bút pháp ước lệ là một trong những biệt tài của Nguyễn Du. Càng đọc càng nghiền ngẫm Truyện Kiều chúng ta càng khám phá nhiều điều mới mẻ trong thế giới nghệ thuật đa dạng của ông.
M.V.H
(196/06-05)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • KHẾ IÊMGửi các nhà thơ Đỗ Quyên, Inrasara và Lê Vũ

  • TRẦN HUYỀN SÂMTrong một nghiệp bút, hình như có tính quyết định bởi những cú sốc. Hoặc là cú sốc ái tình, hoặc là cú sốc chính trị, hoặc là sự thăng hoa của một miền ký ức nào đó ở tuổi hoa niên. Tiểu thuyết gia, chính trị gia Peru: Mario Vargas Llosa - người vừa được vinh danh giải Nobel văn học, dường như đã “chịu” cả ba cú sốc nói trên.

  • LTS: Thơ Haiku Nhật Bản thế kỷ XVII không dùng lối nói bóng gió, không tìm kiếm những nét tương đồng giữa “thế giới bên trong” của con người và hiện thực “bên ngoài” để tạo ra cầu nối giữa con người với thế giới, con người với con người. Haiku dùng những biểu tượng hàm súc ứ đầy thông tin và cảm giác để khắc họa con người trong nhất thể với thế giới. Đường thi cũng rất ít xuất hiện trường hợp dùng lối nói ẩn dụ, mà bộc lộ trực tiếp ý tưởng và ưa thích liên tưởng mà không cần viện tới cái tương đồng.

  • LGT: 1. Dịch giả, nhà phê bình Trần Thiện Đạo( sinh 1933) định cư ở Pháp từ thập niên 50. Sống hơn nửa thế kỷ ở Paris, Trần Thiện Đạo đã thâm ngấm sâu sắc ngôn ngữ và văn minh Pháp. Tuy nhiên, cảm thức cội nguồn vẫn luôn tiềm tàng trong tâm thức của một người trí thức sống lưu vong. Miệt mài, đam mê đến khổ hạnh, ông đã tạo lập một vị trí đặc biệt trong dòng đối lưu văn chương Pháp -Việt.

  • NGUYỄN THANH TÂM1. Thơ vốn dĩ là sản phẩm của đời sống tinh thần, là sự biểu hiện một cách tinh tế những diễn biến nội tâm của chủ thể sáng tạo. Ngôn từ vẫn luôn là chất liệu với nội lực biểu hiện vô song của nó. Các nhà thơ dù ở thời đại nào, trong môi trường văn hóa, lãnh thổ nào cũng không thể thoát ra khỏi sự ràng buộc tự nhiên của cái biểu đạt ấy để hướng tới cái được biểu đạt ẩn sâu sau những “lựa chọn” và “kết hợp” có giá trị mĩ học.

  • MAI VĂN HOANKỷ niệm 70 năm ngày mất Hàn Mặc Tử (11/11/1940 - 11/11/2010)Hàn Mặc Tử tên thật Nguyễn Trọng Trí, sinh năm 1912, mất năm 1940. Quê Lệ Mỹ, Đồng Hới, Quảng Bình. Tổ tiên họ Phạm, ông cố Phạm Nhương, ông nội Phạm Bồi, vì liên can quốc sự trốn vào Thừa Thiên đổi ra họ Nguyễn. Cha là Nguyễn Văn Toản, mẹ là Nguyễn Thị Duy.

  • PHONG LÊHôm nay theo tôi quan niệm là một thời gian khá dài, nếu tính từ khởi động của công cuộc Đổi mới với Đại hội Đảng lần thứ VI - 1986.

  • THÁI DOÃN HIỂUVì sao Nguyễn Du viết Truyện Kiều? Mục đích viết Kiều để làm gì?... là những câu hỏi bức bối trong suốt thời gian tôi còn làm ông giáo đứng trên bục giảng. Tôi đã viết một chuyên luận dài 200 trang để trả lời câu tự vấn trên. Dưới đây là bản tóm tắt ghi bằng thơ để bạn đọc dễ tiếp thu và ghi nhớ.

  • L.T.S: Tối 27-3-1984, tại Huế, giáo sư Xi-đô-rốp, ủy viên Ban chấp hành Hội Nhà văn Liên Xô, hiệu phó học viện Gooc-ki và là nhà lý luận Văn học nổi tiếng của Liên Xô, đã đến tham dự cuộc tọa đàm về các vấn đề văn học với các hội viên Hội Nhà văn Việt Nam ở Bình Trị Thiên. Sau đây là những ý kiến của giáo sư về các vấn đề đặt ra trong cuộc tọa đàm, qua lời phiên dịch của nhà thơ Bằng Việt, do Hoàng Phủ Ngọc Tường ghi lại.

  • MAI VĂN HOANTheo thần thoại Hy Lạp, vị thần đầu tiên xuất hiện trên thế gian là thần Ái tình. Thần Ái tình là một đứa bé có cánh với cây cung bên người, ngọn đuốc cầm tay mang tình yêu đến với những trái tim. Tình yêu - nguồn đề tài không bao giờ cạn của văn học nói chung và thơ ca nói riêng.

  • LƯƠNG ANNhớ có một bài thơ “nói láo” nào đó, khi kết thúc đã nói đến một điều không thể được là làm cho “mấy nàng công chúa phải say mê”. Bài thơ nói đúng với những chàng trai bất tài. Còn trường hợp có tài thì sự việc sẽ khác. Một câu chuyện tình trong đời của nhà thơ Nguyễn Hàm Ninh đã chứng minh điều đó.

  • TRẦN ĐÌNH SỬ1. Văn học - hiện thực là một trong bốn quan hệ cơ bản của văn học nghệ thuật

  • PHAN TUẤN ANH “Trên thực tế, mỗi người chỉ viết một cuốn sách. Chỗ khó là làm sao biết được cuốn sách nào đang được một người viết ra. Trong trường hợp của tôi, điều người ta nhắc đến thường xuyên nhiều hơn cả là cuốn sách về làng Macondo…” (G.G.Marquez).

  • NGUYỄN ĐỨC TÙNGNếu chiều mưa một cây đàn ghi-ta có ai cầm lên, ngân vài nốt nhạc, thời gian sẽ chậm lại, mọi người ngồi gần vào nhau, im lặng chờ nghe.

  • VÕ XUÂN TRANGỞ Bình Trị Thiên có hai câu hò cả nước đều biết, nhưng lâu nay được ghi theo nhiều cách khác nhau.

  • LÂM THỊ MỸ DẠQuá trình cảm thụ thế giới:Những tứ thơ tức là những yếu tố nội dung cấu trúc nên một tác phẩm thi ca. Nói rộng tức là những yếu tố làm nên thế giới thi ca của một nhà thơ.

  • PHẠM PHÚ PHONG(Nhân đọc Hai mươi nhà văn, nhà văn hoá Việt thế kỷ XX)

  • Cuộc đấu tranh chống tiêu cực đang là một mặt trận nóng bỏng trong cuộc sống hiện nay và việc viết về “đề tài chống tiêu cực” đang là vấn đề thời sự được không ít người viết, bạn đọc cũng như các cơ quan chỉ đạo văn nghệ quan tâm.

  • ĐỖ QUYÊNVài năm nay, người Việt ở khắp nơi, trong và cả ngoài văn giới, tranh luận rất nhiều về trào lưu Hậu hiện đại (Postmodernism) như một nan đề. Dù đồng ý hay không đồng ý với nó, ai cũng mong muốn cần đổi mới trong xu hướng văn chương của Việt Nam và mang tinh thần thế giới.

  • (Note sur les cendres des Tây Sơn dans la prison du Khám Đường, par Nguyễn Đình Hòe, B.A.V.H. 1914 p. 145-146)