Bùi Việt Thắng với truyện ngắn và tiểu thuyết

10:51 27/11/2008
PHẠM PHÚ PHONGTri thức được coi thực sự là tri thức khi đó là kết quả của sự suy nghĩ tìm tòi, chứ không phải là trí nhớ.                       L.Tonstoi


Nhiều người sáng tác chỉ chuyên về một thể loại và sự nghiệp ở đời gắn liền với danh hiệu nhà thơ, nhà văn, nhà viết kịch,... Nhưng người làm nghiên cứu phê bình thường quan sát trên một diện rộng, bao quát nhiều thể loại tạo nên sự bổ sung cho nhau như là sự tích hợp cần thiết để có thể đủ “quyền lực” phát ngôn về một lãnh vực nào đó. Nhưng Bùi Việt Thắng lại khác. Hầu hết sức đọc, sức nghĩ, sức cảm của anh đều tập trung cho truyện ngắn và tiểu thuyết, và quả thật, anh đã trở thành “chuyên gia” về lãnh vực này với các công trình đã công bố như: Bình luận truyện ngắn (Nxb Văn học, 1999), Truyện ngắn- những vấn đề lý thuyết và thực tiễn thể loại (Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2000), Truyện ngắn hiện thực 1930-1945 (Nxb Văn học, 2003), Bàn về tiểu thuyết (Nxb Văn hoá thông tin, 2000), Tiểu thuyết đương đại (Nxb Quân đội Nhân dân, 2005), bên cạnh đó còn có công trình tổng quan nhìn suốt một chặng đường văn học như Văn học Việt Nam 1945-1954 (Nxb Văn học 2002) hoặc các công trình viết chung như Văn học Việt Nam thế kỷ XX (Nxb Giáo dục 2004), Lý luận phê bình văn học miền Trung (Nxb Đà Nẵng, 2001)...

Là giảng viên văn học lâu năm của Trường đại học Tổng hợp Hà Nội (nay là Đại học KHXH & NV thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội), việc nghiên cứu khảo sát một cách toàn diện cả về lý thuyết lẫn thực tiễn văn học Việt Nam hiện đại, là điều kiện bắt buộc đối với Bùi Việt Thắng. Cũng chính nhờ thế anh có điều kiện đi sâu vào từng vấn đề về đặc trưng thể loại để lấy ra, rút ra, đúc kết thành những yếu tố căn cốt, xâu chuỗi thành những hệ thống không chỉ thể hiện sức cảm nhận văn xuôi một cách sâu sắc mà còn thể hiện tư duy sắc sảo của một người làm khoa học- một nhà khoa học chuyên ngành thực thụ xứng đáng để nhiều người, phải ngưỡng mộ, học tập.

Về truyện ngắn ở nước ta, Bùi Việt Thắng không phải là người đầu tiên bàn đến. Ngoài những ý kiến, những bài viết được công bố rải rác trên các sách, báo, trước anh đã có Sổ tay truyện ngắn (Nxb Tác phẩm mới, 1980) của Vương Trí Nhàn, Tìm hiểu truyện ngắn (Nxb Tác phẩm mới, 1987) của Trần Thanh Địch. Và cứ như thế, đối với một thể loại xung kích đầy năng động trong nền văn học hiện đại của nước ta, dường như chẳng có điều gì phải bàn tới nữa. Bùi Việt Thắng đã tập trung cái nhìn của mình dưới góc độ thể loại, liên tục cho ra mắt độc giả ba công trình với hơn nghìn trang sách, khảo sát một cách tương đối đầy đủ, toàn diện về truyện ngắn. Điều đáng nói hơn, là ba công trình nhằm đúng vào ba hệ thống khác nhau, lại cùng nằm trong một hệ thống có ý nghĩa liên hoàn, bổ sung cho nhau. Trước hết là Bình luận truyện ngắn (bình luận chứ không phải phê bình) là sự góp nhặt toàn bộ những gì mấy chục năm anh đọc và ngẫm nghĩ về các tác giả, tác phẩm thuộc thể loại truyện ngắn.

Anh xới tung đời sống văn học để nhặt ra thành tựu của một thể loại rồi từ đó đúc kết nâng lên thành cấp độ lý thuyết ở Truyện ngắn- những vấn đề lý thuyết và thực tiễn thể loại. Ở cuốn sách thứ hai này nếu không vững tay, không có sự kế thừa và nâng cao, không có chủ kiến của người làm khoa học, tác giả dễ rơi vào sự lặp lại dấu chân của người đi trước và của cả chính mình. Anh không trở lại những vấn đề như đề tài, chủ đề, nhân vật, ngôn ngữ như Trần Thanh Địch đã bàn mà đi từ định nghĩa, nguồn gốc để xác định các yếu tố đặc trưng, các kiểu truyện ngắn, từ đó cung cấp một cái nhìn khái quát về sự phát triển truyện ngắn Việt Nam thế kỷ XX. Phương pháp nghiên cứu của Bùi Việt Thắng vừa có sự phối hợp giữa đồng đại và lịch đại, vừa kế thừa vừa nâng cao không chỉ thành tựu trong nước mà cả trên thế giới, vừa mang tính hệ thống vừa có sự phân tích đối chiếu để tìm ra bản chất.

Ở phần định nghĩa và nguồn gốc tác giả đã cung cấp một cái nhìn tương đối đầy đủ các quan niệm về lý luận cũng như thực tiễn về truyện ngắn trong nước và các nước có nhiều thành tựu về thể loại này, để đến phần đặc trưng anh chỉ ra các nét riêng của truyện ngắn chủ yếu là ở các phương diện bản chất như dung lượng, cốt truyện, kết cấu, tình huống, nhân vật; từ đó anh chỉ ra các kiểu truyện ngắn như truyện ngắn cổ điển, truyện ngắn tâm tình, truyện ngắn kỳ ảo, truyện ngắn rất ngắn, truyện ngắn liên hoàn và biến thể...Cách làm này là tương đối toàn diện khi tác giả có sự kết hợp giữa hai phương thức vừa bổ ngang vừa bổ dọc để tiếp cận chân lý. Tuy tên gọi là những vấn đề lý thuyết và thực tiễn thể loại, nhưng tác giả chủ yếu đi sâu vào lý thuyết nhiều hơn và theo tôi, đó cũng chính là đóng góp nổi bật của Bùi Việt Thắng thông qua hơn hai trăm trang sách phần đầu, được anh gọi là chuyên luận về truyện ngắn.

Ở phần thứ hai là phần “tài liệu tham khảo dùng cho rộng rãi đối tượng các nhà nghiên cứu, người sáng tác, sinh viên học tập và tất cả những ai yêu văn chương, đặc biệt là yêu thích truyện ngắn” (tr. 222), là vấn đề mà Vương Trí Nhàn đã ghi vào Sổ tay truyện ngắn nhưng Bùi Việt Thắng cũng không trùng lập với Vương Trí Nhàn. Phần trích ý kiến các tác giả nước ngoài anh ghi hẳn là trích lại từ Sổ tay truyện ngắn của Vương Trí Nhàn, còn các tác giả trong nước anh cũng dẫn ra ý kiến của các cây bút truyện ngắn của nước ta như Tô Hoài, Nguyễn Công Hoan, Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Thành Long, Nguyễn Kiên, Nguyên Ngọc nhưng không trích trùng với những gì Vương Trí Nhàn đã trích mà tìm đến cái mới, những phương diện, góc độ khác. Ở chương cuối của phần 1, Khái quát sự phát triển truyện ngắn Việt Nam thế kỷ XX người viết không chỉ nhìn sự vận động phát triển của truyện ngắn dọc theo chiều vận động của lịch sử mà còn dừng lại đi sâu vào một số tác giả tiêu biểu như Nguyễn Công Hoan, Thạch Lam, Nam Cao, Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Huy Thiệp, dành cho họ một số trang thích đáng. Xin được nói ngay rằng, theo tôi ở giai đoạn 1975-2000, nếu tác giả vượt ra khỏi một vài thiên kiến thì các tác giả tiêu biểu giai đoạn này không chỉ có Nguyễn Minh Châu và Nguyễn Huy Thiệp mà còn có cả Phạm Thị Hoài nữa, mặc dù có thể do sở thích, do thị hiếu, do quan niệm, nhưng không thể không ghi nhận (hình như trong suốt các công trình của anh, chỉ có một lần anh nhắc đến nhà văn nữ này là nhằm để phê phán ở trong sách Tiểu thuyết đương đại, (tr. 109)

Với Truyện ngắn hiện thực 1930-1945, là công trình biên soạn tập trung vào một trong những giai đoạn có những thành tựu truyện ngắn rực rỡ nhất của nước ta, Bùi Việt Thắng lại tiếp tục phương pháp nghiên cứu vừa có điểm vừa có diện, vừa quan sát cả một giai đoạn, một bức tranh văn học rộng lớn vừa soi sáng dưới lý thuyết của phương pháp sáng tác, trong đó thành tựu nổi bật nhất là truyện ngắn, với các tác giả như Nguyên Hồng, Nguyễn Công Hoan, Nam Cao, Ngô Tất Tố, Thạch Lam, Vũ Trọng Phụng... Có thể coi đây là một phần trong giáo trình giảng dạy của tác giả về truyện ngắn ở bậc đại học cũng là một phần về thể loại truyện ngắn được tác giả công bố trong công trình chung Văn học Việt thế kỷ XX. Có thể nói trên cả phương diện lý thuyết lẫn thực tiễn về khám phá thể loại, Bùi Việt Thắng là một trong những tác giả hiếm hoi có “bộ ba” tác phẩm nghiên cứu liên hoàn về truyện ngắn, tập trung vào ba phương diện, ba khía cạnh có thể bổ sung cho nhau, nếu không muốn nói anh là người có hệ thống hoàn chỉnh nhất về truyện ngắn.

Tương tự như vậy, về tiểu thuyết ở nước ta, Bùi Việt Thắng cũng không phải là người đầu tiên quan tâm đến. Có thể nói trong nền văn học hiện đại, lý thuyết về thể loại tiểu thuyết được các tác giả quan tâm đến trước tiên. Tính theo thời gian (chỉ tính riêng những công trình in thành sách) có thể xếp theo thứ tự: Khảo về tiểu thuyết (1929) của Phạm Quỳnh, Theo dòng (1941) của Thạch Lam, Khảo về tiểu thuyết (1955) của Vũ Bằng, Viết và đọc tiểu  thuyết (1960) của Nhất Linh, Xây dựng tác phẩm tiểu thuyết (1961) của Nguyễn Văn Trung, Công việc của người viết tiểu thuyết (1969) của Nguyễn Đình Thi, Sổ tay viết văn (1977) của Tô Hoài... trong đó có những công trình được đánh giá cao như Công việc của người viết tiểu thuyết được coi là đã thể hiện “năng lực tư duy sâu sắc, sự hài hoà giữa năng lực triết học và văn học, giữa khái quát và cảm thụ, giữa phân tích chặt chẽ và diễn đạt tài hoa” (tr. 437), hoặc Khảo về tiểu thuyết của Phạm Quỳnh được in trên Nam Phong tạp chí từ năm 1921, in thành sách năm 1929 được Vũ Ngọc Phan trong Nhà văn hiện đại đánh giá là “Phần khảo cứu tuy không dài, nhưng sáng suốt và cân phân, không thiên về mặt nào quá, ông lại cử ra đủ các thí dụ về tiểu thuyết đông tây” (1).

Theo tôi, cần phải ghi nhận, đây không chỉ là cuốn sách bàn về tiểu thuyết đầu tiên mà còn là cuốn lý luận văn học đầu tiên về thể loại của nước ta. Bàn về tiểu thuyết là công trình được tuyển chọn và biên soạn nhằm thảo mãn mục tiêu: “chúng ta còn thiếu một bộ lịch sử tiểu thuyết Việt chí ít có lộ trình phát triển gần ba trăm năm” như trong lời nói đầu tác giả đã khẳng định. Ngoài phần phụ lục chỉ dẫn về các tác giả, nội dung được chia thành hai phần ứng với hai giai đoạn phát triển của tiểu thuyết hiện đại, lấy năm 1945 làm bản lề. Trong nhiều tác giả có tham gia bàn về tiểu thuyết trước năm 1945, Bùi Việt Thắng tuyển chọn và trích ý kiến của ba tác giả là Phạm Quỳnh, Thạch Lam và Vũ Bằng, đều là sự lựa chọn và cân nhắc xác đáng, bởi vì đây là ba ý kiến hết sức đặc sắc. Từ những năm 20 của thế kỷ trước, Phạm Quỳnh đã chỉ ra được những nét đặc trưng về thể loại về thời đại của tiểu thuyết, nhất là những đặc điểm về kết cấu, sự kiện, con người, chi tiết, tình tiết, nghệ thuật tự sự, lại còn phân loại thành tiểu thuyết ngôn tình, tiểu thuyết tả thực, tiểu thuyết truyền kỳ, đồng thời còn phân biệt quan niệm về tiểu thuyết nước ta và các nước phương Tây đặt trong yêu cầu mối quan hệ giữa nội dung và hình thức: “Theo ý kiến phần nhiều các nhà văn sĩ Âu Châu thời văn chương không tất nhiên có quan hệ với thế đạo.

Làm một bộ tiểu thuyết cốt là đặt cho hay, viết cho khéo, cho người đọc có hứng thú, còn ảnh hưởng về xã hội, phong tục thế nào, bất tất phải xét đến. Nay không bàn ý kiến ấy là phải hay là trái, nhưng có lẽ ở những nước văn minh lắm thời hoặc có thể nghĩ như thế được, chứ ở những dân còn bán khai như dân ta, thời văn chương rất là quan hệ cho đời lắm. Nhà làm văn có trách nhiệm duy trì cho xã hội, dìu dắt quốc dân, nếu làm trái trách nhiệm ấy thời dẫu văn chương hay đến đâu cũng có tội với quốc gia, với danh giáo vậy.” ( tr. 37). Ở đoạn khác, ông chỉ ra phẩm chất của người làm văn chương nghệ thuật: “Văn là cái vẻ thiên nhiên ở trong con người, không học mà được. Phàm người có chí khí, có tư tưởng, có phẩm cách cao là những người có văn cả, nếu dụng tâm làm văn thì văn ấy mới là văn chương. Những kẻ nhân cách tầm thường thì dẫu suốt đời học văn, văn chương ấy vẫn là không có giá trị.” Ở Thạch Lam ta thấy ông xác định quan niệm trong tiểu thuyết, vai trò chức năng của tiểu thuyết, các loại người đọc, đối tượng phản ánh, sức sống của tiểu thuyết; Vũ Bằng lại đặt mối quan hệ của tiểu thuyết với thuật tả chân và các vấn đề về nhân vật, ngôn ngữ, tư tưởng chủ đề, giọng điệu... Đó là tất cả những vấn đề căn cốt và bức thiết của tiểu thuyết hiện đại cho đến nay vẫn còn có ý nghĩa thời sự, vẫn còn nguyên giá trị học thuật, thu hút sự quan tâm của nhiều người, cả những người sáng tác và giới nghiên cứu.

Những ý kiến bàn về tiểu thuyết sau năm 1945, hầu hết là của các nhà tiểu thuyết tài ba như Nhất Linh, Nguyễn Đình Thi, Tô Hoài, Chu Văn, Nguyễn Minh Châu, Ma Văn Kháng. Những phát ngôn của họ, không chỉ có ích cho người nghiên cứu về tiểu thuyết, mà còn rất bổ ích cho những người sáng tạo tiểu thuyết, không chỉ có giá trị học thuật mà còn nhìn vấn đề từ tâm lý sáng tạo, từ tâm lý sáng tạo đến tâm lý người đọc, người tiếp nhận. Những ý kiến của Nguyễn Văn Trung, Hoàng Ngọc Hiến, Vương Trí Nhàn và Bùi Việt Thắng (bản thân tác giả cũng góp Hai bài viết về tiểu thuyết) lại xuất phát từ góc độ học thuật, chỉ ra đặc trưng, nhân vật và những thành tựu của tiểu thuyết. Đặc biệt Xây dựng tác phẩm tiểu thuyết của Nguyễn Văn Trung đi sâu vào những vấn đề của thi pháp tiểu thuyết, chỉ ra kỹ thuật xây dựng, điểm nhìn, góc nhìn trong không gian nghệ thuật, coi hoạt động sáng tạo là hoạt động có ý thức và đặc trưng đa biến của tiểu thuyết phản tiểu thuyết.

Nếu Bàn về tiểu thuyết chỉ đơn thuần là lý thuyết, thì đến tác phẩm gần đây của Bùi Việt Thắng là Tiểu thuyết đương đại chủ yếu là khảo sát đời sống tiểu thuyết đang sôi động ở nước ta hơn hai mươi năm qua. Và, nếu ở cuốn sách trước, đóng góp chủ yếu của tác giả là ở giá trị tư liệu, sự tuyển chọn khách quan khoa học đến mức xác đáng, thì ở cuốn sách này, thật sự là sự đầu tư nghiền ngẫm, vận dụng những gì đã tích tụ, tạo nên một hệ thống tư duy mạch lạc, có sức thuyết phục và độ chín, độ sâu. Tiểu thuyết đương đại (sưu tập các bài đã in báo, phát biểu tại các hội thảo khoa học), chia làm hai phần: Phần I, Trong dòng chung gồm 11 tiểu luận khảo sát về bức tranh tiểu thuyết đương đại, chủ yếu là tiểu thuyết viết về chiến tranh sau chiến tranh và thời kỳ đổi mới.

Trên cơ sở phác thảo hiện trạng của tiểu thuyết đương đại, tác giả đi sâu phân tích các yếu tố chủ yếu như đặc trưng, cấu trúc, nhân vật, khuynh hướng giản lược nhân vật, đồng thời nhìn dưới góc độ của người sáng tác, người nghiên cứu, tiếp nhận, trong đó có những bài có tính chất khái quát, có kích cỡ về lý thuyết và thực tiễn, có cơ sở khoa học và có sức thuyết phục cao như Tiểu thuyết Việt Nam sau 1975- nhìn góc độ từ thể loại, Những biến đổi trong cấu trúc thể loại tiểu thuyết sau 1975... Từ bài mở đầu Hiện trạng tiểu thuyết, đến bài kết thúc Phía trước của tiểu thuyết, Bùi Việt Thắng không chỉ phác họa được bức tranh đời sống tiểu thuyết có tính đồng đại, mà còn rẽ bóng thời gian nhìn về quá khứ và dự báo sự phát triển của tiểu thuyết trong tương lai: “Sự chiếm lĩnh bạn đọc ở thế kỷ XXI vẫn là những tiểu thuyết nào đạt tới cổ điển, đó là sự hài hoà, sự trang trọng, thanh nhã. Dĩ nhiên, cái cổ điển ở thế kỷ XXI có thể khác ít nhiều thế kỷ XX và thế kỷ XIX vì tâm linh và trí tuệ sẽ là những giá trị hàng đầu mà văn học nghệ thuật hướng tới khám phá sáng tạo”(tr. 149).

Ở phần II, phần phê bình, gồm 19 bài viết về các tác giả, tác phẩm, Bùi Việt Thắng cũng sưu tập những bài viết đã được công bố trên các báo theo trật tự thời gian, từ những tiểu thuyết xuất hiện vào đêm trước của thời kỳ đổi mới như Sao đổi ngôi (Chu Văn), Những ngõ phố, Người đường phố (Tô Hoài), Thời xa vắng (Lê Lựu), Người của biển (Đình Kính).... đến những tiểu thuyết đạt giải thưởng gây xôn xao dư luận những năm gần đây như Một thế giới không có đàn bà (Bùi Anh Tấn), Cơ hội của Chúa (Nguyễn Việt Hà), Dòng sông mía (Đào Thắng)... Ở đây, như một sự bổ sung cho phần trước và cuốn sách trước, không chỉ thể hiện tư duy logíc chặt chẽ mà còn thể hiện khả năng cảm thụ văn xuôi một cách tinh tế, nhạy cảm và chuẩn xác. Người sáng tạo tư duy bằng hình tượng. Người phê bình cũng phải tư duy bằng hình tượng. Người phê bình không chỉ cần có năng khiếu văn chương mà còn đòi hỏi phải có trình độ tri thức, có văn hoá nữa. Từ đó, mới có thể hình dung ra hình tượng, không chỉ phân tích bằng tư duy duy lý của một nhà khoa học, mà còn góp phần nhận thức lại, sáng tạo lại, trở thành đồng tác giả với nhà văn.

Bùi Việt Thắng đã làm được điều đó. Những bài viết về các tiểu thuyết Lạc rừng (Trung Trung Đỉnh), Tháng không ngày (Trần Thị Thắng), Thuỷ hoả đạo tặc (Hồng Minh Tường), Ăn mày dĩ vãng (Chu Lai), Bến không chồng (Dương Hướng), hoặc về chân dung tác giả Tiểu thuyết Ông Văn Tùng... là những bài viết có độ thẩm thấu, thể hiện năng lực tài hoa của người làm phê bình văn học. Tuy nhiên, nhìn một cách toàn diện, anh còn bỏ qua nhiều tác phẩm được đông đảo người đọc quan tâm, như Thân phận của tình yêu (Bảo Ninh), Hồ Quý Ly (Nguyễn Xuân Khánh), Trùng tu (Thái Bá Lợi), Kỳ nữ họ Tống (Nguyễn Văn Xuân), Sông dài như kiếm (Nguyễn Quang Hà)... Cũng có thể là do sở thích, do thị hiếu, do chưa có cơ duyên, chưa có điều kiện quan sát một cách đầy đủ. Âu, đó cũng là lẽ thường. Làm sao có thể đòi hỏi tất cả mọi điều ở một cuốn sách, một tác giả!

Trong các thể văn xuôi, truyện ngắn và tiểu thuyết là hai thể xung kích, chủ lực và đầy năng động của những nền văn học hiện đại, có mối quan hệ mật thiết, có nhiều nét tương đồng gần gũi với nhau. Trong Truyện ngắn- những vấn đề lý thuyết và thực tiễn thể loại, ít nhất có ba lần Bùi Việt Thắng nhắc đến vấn đề  “truyện ngắn được quan niệm là một bộ phận của tiểu thuyết” (tr. 36, 71, 132). Đồng thời, trong Tiểu thuyết đương đại không dưới bốn lần anh khẳng định “Tiểu thuyết là cái máy cái của văn học” (tr. 7, 84, 98, 140), là hình thức tự sự có tầm vóc lớn, có thể bao quát nhiều sự kiện, chi phối nhiều số phận, diễn ra ở nhiều nơi và trong một quãng thời gian dài, trong khi đó truyện ngắn chỉ là một hình thức tự sự nhỏ, “vì thế trên nguyên tắc không có lý thuyết riêng cho truyện ngắn, lý thuyết của nó dựa vào lý thuyết của tiểu thuyết.
Tuy nhiên, với tư cách là một thể loại văn học độc lập, có tuổi thọ cao trong tiến trình văn học dân tộc và rất năng động, nên trong một chừng mực nào đó vẫn có thể xây dựng một lý thuyết riêng cho thể loại “nhỏ” này, nghĩa là xem xét nó trong tính tương đối ngang hàng, bình đẳng với tiểu thuyết” (tr.71).

Và, quả là, Bùi Việt Thắng đã cố gắng xây dựng một hệ thống lý thuyết cho cả hai thể loại có thể “tương đối ngang hàng, bình đẳng” với nhau này, thậm chí còn dành cho thể loại chưa có “lý thuyết riêng” sự ưu ái nhiều hơn. Chỉ tính số trang sách, đầu sách của anh cũng thể hiện rõ điều đó. Đồng thời, những trang viết về truyện ngắn cũng được anh đầu tư, cân nhắc một cách cẩn trọng hơn so với tiểu thuyết, bởi “tiểu thuyết là một thể loại văn chương duy nhất đang biến chuyển và còn chưa định hình” (2). Là người nghiên cứu về thể loại “duy nhất đang biến chuyển và chưa định hình” này, Bùi Việt Thắng cũng phải hết sức năng động, nhìn sự vận động thể loại theo từng thời kỳ lịch sử, nhằm chỉ ra rằng “tiểu thuyết là một nghệ thuật khám phá đời sống xã hội” (tr.106), đồng thời đối với nghệ thuật đương đại, thì “sự tìm tòi những kiểu khác nhau của tiểu thuyết đương đại là nhằm phát hiện ra tính chất ngày càng phức tạp của đời sống và con người. Suy cho cùng, những biến đổi trong kết cấu thể loại là phản ánh những thay đổi kết cấu trong đời sống xã hội xét về nhiều mặt” (tr. 83).

Điều đáng lưu ý là ở cả hai thể loại, Bùi Việt Thắng chủ yếu nhằm vào thực tiễn văn học đang vận động và phát triển, vừa có sự kết hợp giữa cái nhìn đồng đại và lịch đại, nhưng suy cho cùng tính chất đương đại là chủ yếu, là hiệu quả và là mục tiêu cuối cùng của tác giả. Có thể nói cả năm công trình nghiên cứu và biên soạn của Bùi Việt Thắng đều nhằm đúng vào giai đoạn thời kỳ đổi mới. Anh bắt đầu nghiên cứu từ những tác giả mở đầu thời kỳ đổi mới như Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Huy Thiệp... từ các tác phẩm như Thời xa vắng, Sao đổi ngôi, Người của biển... Cho dù, có trở lại những tác giả cổ điển trong quá khứ như Nam Cao, Thạch Lam, Vũ Trọng Phụng... anh cũng nhìn bằng cái nhìn của hôm nay, bằng cái nhìn đổi mới. Có thể nói, anh là tác giả nghiên cứu về văn học thời kỳ đổi mới, là người đi tiên phong, người hiếm hoi dõi cái nhìn xuyên suốt văn học đương đại, nhất là đối với truyện ngắn và tiểu thuyết.
                          P.P.P

(nguồn: TCSH số 205 - 03 - 2006)

 

 



-----------------------------
(1) Dẫn theo Bùi Việt Thắng, sđd, tr. 436
(2) M.Bakhtine, Những vấn đề thi pháp Dostoieski, Nxb Giáo dục, 1993.

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • ĐẶNG TIẾNThuật ngữ Thi Học dùng ở đây để biểu đạt những kiến thức, suy nghĩ về Thơ, qua nhiều dạng thức và trong quá trình của nó. Chữ Pháp là Poétique, hiểu theo nghĩa hẹp và cổ điển, áp dụng chủ yếu vào văn vần. Dùng theo nghĩa rộng và hiện đại, theo quan điểm của Valéry, được Jakobson phát triển về sau, từ Poétique được dịch là Thi Pháp, chỉ chức năng thẩm mỹ của ngôn từ, và nới rộng ra những hệ thống ký hiệu khác, là lý thuyết về tính nghệ thuật nói chung. Thi Học, giới hạn trong phạm vi thi ca, là một bộ phận nhỏ của Thi Pháp.

  • TRẦN CAO SƠNTriều Nguyễn tồn tại gần 150 năm, kể từ khi Nguyễn Ánh lên ngôi hoàng đế với niên hiệu Gia Long - năm1802, tạo dựng một đế chế tập quyền trên toàn bộ lãnh thổ mà trước đó chưa hề có. Trải qua một thế kỷ rưỡi tồn tại, vinh hoa và tủi nhục, Triều đại Nguyễn là một thực thể cấu thành trong lịch sử Đại Việt. Những cái do triều đình Nhà Nguyễn mang lại cũng rất có ý nghĩa, đó là chấm dứt cuộc nội chiến, tranh giành quyền lực, xương trắng máu đào liên miên mấy thế kỷ, kiến tạo bộ máy quản lý hành chính trung ương tập quyền thống nhất mà Quang Trung - Nguyễn Huệ đã dày công vun đắp gây dựng trước đó. Dân tộc đã phải trải qua những năm tháng bi hùng với nhiều điều nuối tiếc, đáng bàn đáng nói ngay ở chính hôm nay. Song lịch sử là lịch sử, đó là một hiện thực khách quan.

  • TRẦN HUYỀN SÂMNếu nghệ thuật là một sự ngạc nhiên thì chính tiểu thuyết Thập giá giữa rừng sâu là sự minh định rõ nhất cho điều này. Tôi bàng hoàng nhận ra rằng, luận thuyết: con người cao quý và có tình hơn động vật đã không hoàn toàn đúng như lâu nay chúng ta vẫn tin tưởng một cách hồn nhiên. Con người có nguy cơ sa xuống hàng thú vật, thậm chí không bằng thú vật, nếu không ý thức được giá trị đích thực của Con Người với cái tên viết hoa của nó. Phải chăng, đây chính là lời nói tối hậu với con người, về con người của tác phẩm này?

  • HOÀNG NGỌC HIẾN           ...Từ những nguồn khác nhau: đạo đức học, mỹ học, triết học xã hội-chính trị, triết học xã hội-văn hoá... cảm hứng triết luận trong nghiên cứu, phê bình văn học là nỗ lực vượt lên trên những thành kiến và định kiến hẹp hòi trong sinh hoạt cũng như trong học thuật. Những thành kiến, định kiến này có khi lại được xem như những điều hiển nhiên. Mà đã là “hiển nhiên” thì khỏi phải bàn. Đây cũng là một thói quen khá phổ biến trong nhân loại. Cảm hứng triết luận trong nghiên cứu, phê bình có khi bắt nguồn từ suy nghĩ về chính những điều “hiển nhiên” như vậy...

  • THÁI DOÃN HIỂUVào đời, Lưu Quang Vũ bắt đầu làm thơ, viết truyện, rồi dừng lại nơi kịch. Ở thể loại nào, tài năng của Vũ cũng in dấu ấn đậm đà làm cho bạn đọc cả nước đi từ ngạc nhiên đến sửng sốt. Thơ Lưu Quang Vũ một thời được lớp trẻ say sưa chép và thuộc. Kịch Lưu Quang Vũ một thời gần như thống trị sân khấu cả nước.

  • TRẦN THANH ĐẠMTrong lịch sử nước ta cũng như nhiều nước khác, thời cổ - trung đại cũng như thời cận - hiện đại, mỗi khi một quốc gia, dân tộc bị xâm lược và chinh phục bởi các thế lực bên ngoài thì trong nước bao giờ cũng phát sinh hai lực lượng: một lực lượng tìm cách kháng cự lại nạn ngoại xâm và một lực lượng khác đứng ra hợp tác với kẻ ngoại xâm.

  • ĐỖ LAI THUÝLTS: Trong số tháng 5-2003, Sông Hương đã dành một số trang để anh em văn nghệ sĩ Huế "tưởng niệm" nhà văn Nguyễn Đình Thi vừa qua đời. Song, đấy chỉ mới là việc nghĩa.Là một cây đại thụ của nền văn nghệ cách mạng Việt Nam, Nguyễn Đình Thi toả bóng trên nhiều lĩnh vực nghệ thuật. Bằng chứng qua các bài viết về ông sau đây, Sông Hương xin trân trọng dành thêm trang để giới thiệu sâu hơn, có hệ thống hơn về Nguyễn Đình Thi cùng bạn đọc.

  • ĐẶNG TIẾN…Nguyễn Đình Thi quê quán Hà Nội, nhưng sinh tại Luang Prabang, Lào, ngày 20/12/1924. Từ 1931 theo gia đình về nước, học tại Hải Phòng, Hà Nội. Năm 1941 tham gia Thanh Niên cưú quốc, 1943 tham gia Văn hóa cứu quốc, bị Pháp bắt nhiều lần. Năm 1945, tham dự Quốc Dân Đại hội Tân Trào, vào Ủy ban Giải phóng Dân tộc. Năm 1946, là đại biểu Quốc hội trẻ nhất, làm Ủy viên Thường trực Quốc hội, khóa I…

  • HỒ THẾ HÀ          Hai mươi lăm năm thơ Huế (1975 - 2000) là một chặng đường không dài, nhưng nó diễn ra trong một bối cảnh lịch sử - thi ca đầy phức tạp. Cuộc sống hàng ngày đặt ra cho thể loại những yêu cầu mới, mà thơ ca phải làm tròn sứ mệnh cao cả với tư cách là một hoạt động nhận thức nhạy bén nhất. Những khó khăn là chuyện đương nhiên, nhưng cũng phải thấy rằng bí quyết sinh tồn của chính thể loại cũng không chịu bó tay. Hơn nữa, đã đặt ra yêu cầu thì chính cuộc sống cũng đã chuẩn bị những tiền đề để thực hiện. Nếu không, mối quan hệ này bị phá vỡ.

  • JAMES REEVESGần như điều mà tôi hoặc bất kỳ nhà văn nào khác có thể nói về một bài thơ đều giống nhau khi nêu ra ấn tượng về điều gì đấy được in trên giấy. Tôi muốn nhấn mạnh rằng đây không phải là toàn bộ sự thật. Việc in trên giấy thực ra là một bài thơ gián tiếp. Sẽ dễ dàng thấy điều này nếu chúng ta đang nói về hội hoạ hoặc điêu khắc.

  • NGUYỄN ĐĂNG ĐIỆP...Nguyễn Huy Thiệp không phải là người duy nhất đổi mới phương thức trần thuật. Trước ông đã có Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng... tích cực mở đường. Nhưng phải đến Nguyễn Huy Thiệp thì sự khai phóng về tư tưởng nghệ thuật mới được thể hiện một cách đậm nét. Tất cả được Nguyễn Huy Thiệp kiến tạo qua một trò chơi đầy tính bất ngờ. Giống như người nghệ sĩ ba lê tài năng, Nguyễn Huy Thiệp trình diễn một thế giới đa sắc trên đầu những đầu mũi ngón chân. Những ngón chân ấy bám trụ vào hiện thực một cách tinh diệu, xoay chuyển một cách nhịp nhàng với những vòng quay, những vũ điệu ngôn từ...

  • PHAN NGỌC THUTrong nền văn học Việt Nam thế kỷ XX, Xuân Diệu (1916-1985) là một trong những nhà thơ nổi tiếng nhất, đồng thời cũng là nhà phê bình văn học kiệt xuất. Từ những bài tranh luận văn học sôi nổi thời Thơ Mới (1932-1945) đến Tiếng thơ (1951), Những bước đường tư tưởng của tôi (1958); từ Phê bình giới thiệu thơ (1960) đến Trò chuyện với các bạn làm thơ trẻ (1961), Dao có mài mới sắc (1963), Lượng thông tin và những kỹ sư tâm hồn ấy (1978), Các nhà thơ cổ điển Việt Nam, tập I (1981), tập II (1982) và Công việc làm thơ (1984)... "chỉ tính riêng các tác phẩm lý luận phê bình, đã có thể gọi Xuân Diệu là một đại gia"(1)

  • BÙI QUANG TUYẾNThơ mới là một hiện tượng nổi bật của văn học Việt Nam nói chung và thơ ca nói riêng trong thế kỷ XX. Nó vừa ra đời đã nhanh chóng khẳng định vị trí xứng đáng trong nền văn học dân tộc với các "hoàng tử thơ": Thế Lữ, Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử v..v...

  • HÀ KHÁNH CHINgày 20 - 3 - 2003, siêu cường lớn nhất mọi thời đại là đế quốc Hoa Kỳ đã mở đầu cuộc chiến tranh kỳ quái nhất trong lịch sử bằng cách tấn công Iraq sau khi đã bắt quốc gia này phải tự phá huỷ vũ khí tự vệ của chính họ. Đó là bài học chưa hề thấy về chút hy vọng cuối cùng mà lương tri nhân loại có thể đòi hỏi. Để có thể hiểu rõ hơn những gì đang xảy ra hôm nay - có lẽ cũng rất cần ôn lại một trong những vấn đề lớn nhất mà loài người có thể nghĩ tới: cuộc chiến tranh Việt Nam đã kết thúc cách đây gần 30 năm.

  • HOÀNG ĐĂNG KHOA Văn học Việt từ sau 1975, nhất là từ thời kỳ đổi mới, là một quá trình văn học rất phong phú, đa dạng và không ít phức tạp, lại còn đang tiếp diễn. Cuốn sách Văn học Việt Nam sau 1975 - Những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy ra đời đáp ứng nhu cầu mang tính thời sự: nhu cầu nhìn nhận, đánh giá một cách khách quan, toàn diện về tiến trình văn học ba mươi năm qua, chuẩn bị cho sự ra đời của những công trình văn học sử và những chuyên khảo về giai đoạn văn học này.

  • NGUYỄN QUANG HÀTrong đời có những bài thơ người ta quên, mà chỉ nhớ một câu nằm lòng. Bởi đó là những câu thơ thực sự, những câu thơ thi sĩ. Từ xưa đến nay, đã có rất nhiều định nghĩa về thơ: Thơ là tiếng hát của trái tim; Thơ là hạt muối kết tinh của tình cảm; Thơ là phút giây rung động của tâm hồn... Nói chung, những định nghĩa ấy cho ta hiểu rằng ở đâu có được sự rung động của trái tim thì ở đó có thơ.

  • ĐỖ LAI THUÝPhê bình văn học Việt Nam, sau sự khởi nguồn của Thiếu Sơn với Phê bình và Cảo luận (1933) chia thành hai ngả. Một xuất phát từ Phê bình để trở thành lối phê bình chủ quan ấn tượng với Hoài Thanh và Thi nhân Việt Nam (1942). Lối kia bắt nguồn từ Cảo luận tạo nên phê bình khách quan khoa học với Vũ Ngọc Phan của Nhà văn hiện đại (1942), Trần Thanh Mai của Hàn Mặc Tử (1941), Trương Tửu của Nguyễn Du và Truyện Kiều (1942), Tâm lý và tư tưởng Nguyễn Công Trứ (1945). Sự phân chia này, dĩ nhiên, không phải là hành chính, mà là khoa học, tức sự phân giới dựa trên những yếu tố chủ đạo, nên không phải là không thể vượt biên. Bởi, mọi biên giới đều mơ hồ hơn ta tưởng, nhất là ở khoa học văn chương.

  • LTS: Marcel Reich-Ranicki, sinh năm 1920, người ở Đức được mệnh danh là "Giáo hoàng văn học", là nhà phê bình văn học đương đại quan trọng nhất của CHLB Đức. "Một lời biện hộ cho thơ" là bài thuyết trình đọc vào ngày 30.11.1980 nhân dịp ra mắt Tập 5 của "Tuyển thơ Frankfurt" trong khuôn khổ chuyên mục thơ của nhật báo "Frankfurter Allgemeine Zeitung" (FAZ) mà tác giả là chủ biên phần văn học từ 1973 đến 1988.Sông Hương xin trân trọng giới thiệu bài "Một lời biện hộ cho thơ" của ông sau đây do dịch giả Trương Hồng Quang thực hiện.

  • TRẦN HUYỀN SÂMGeorge Sand (1804-1876) là một gương mặt độc đáo trên văn đàn Pháp thế kỷ XIX. Cùng thời với những cây bút nổi tiếng như: A.Lamartine, V.Hugo, A.Vigny, A.Musset... nữ sĩ vẫn tạo cho mình một tầm vóc riêng không chìm khuất. George Sand bước vào thế giới nghệ thuật bằng một thái độ tự tin và một khát vọng sáng tạo mãnh liệt. Với hơn hai mươi cuốn tiểu thuyết đồ sộ, G.Sand đã trở thành một tên tuổi lừng danh ngay từ đương thời. Dĩ nhiên, bà lừng danh còn bởi nhiều mối tình bất tử, trong đó có nhà thơ Pháp nổi tiếng A.Musset và nhạc sĩ thiên tài Chopin người Ba Lan.

  • PHẠM QUANG TRUNGCó lần, dăm ba người có thiên hướng lý luận chúng tôi gặp nhau, một câu hỏi có thể nói là quan thiết được nêu ra: trong quan niệm văn chương, e ngại nhất là thiên hướng nào? Rất mừng là ý kiến khá thống nhất, tuy phải trải qua tranh biện, không đến nỗi quyết liệt, cũng không phải hoàn toàn xuôi chiều hẳn. Có lẽ thế mới hay!