Danh từ hoa sen được dùng cho nhiều vật dụng của chư tăng như liên hoa phục (liên hoa y) Hay khi chúng ta lễ Phật, hai bàn tay chắp lại thành hình hoa sen mà nhà Phật gọi là Liên Hoa Phật chưởng, biểu thị cho lý và trí cùng một thể. Hoa sen cũng tượng trưng cho cõi cực lạc. Theo các kinh tịnh độ tông thì ở “cõi cực lạc của Phật Adiđà có rất nhiều ao sen báu, trong mỗi ao có 60 ức hoa sen bằng bảy báu, tròn trịa vừa đúng 12 do tuần. Mỗi hoa sen là mỗi chỗ dành cho những người vãng sinh về giá thai, tùy theo công đức và căn cơ mà giá vào Thượng phẩm, Trung phẩm hay Hạ phẩm”(1). Như vậy, một trong nhiều ý nghĩa của bông sen vẫn được kể tới là: nơi để sinh ra. Đó là ý nghĩa bắt nguồn từ thời nguyên thủy mang tính tín ngưỡng tâm linh. Từ ý kiến trên, một điều có thể tạm rút ra là: hoa sen mang yếu tố âm. Cho nên trong kiến trúc người ta nhìn thấy đá chân tảng chạm đài sen (âm) làm chỗ kê của chiếc cột mang hình thức Linga - (dương) là sự kết hợp âm dương trong thể đối đãi, biểu hiện của sự cầu mong bền vững và sinh sôi nảy nở.(2) ở Việt Nam hoa sen chẳng những quen thuộc trong đời sống hàng ngày mà còn xuất hiện trong các huyền thoại về những vị vua gắn bó nhiều với Phật giáo: Khi có thai vua Lê Đại Hành, mẹ vua nằm mơ thấy bụng nở hoa sen, vua Lý Thánh Tông mơ thấy Phật Quan Âm ngồi trên đài sen dắt vua lên tòa, vua Trần Nhân Tông “nằm ngủ trong chùa Tư Phúc mơ thấy từ rốn mình mọc lên một bông sen, trên bông sen có một vị Phật mình vàng.(3) Song hành cùng sự phát triển của Phật giáo, hình tượng hoa sen không chỉ dừng lại là một biểu tượng phổ biến trong lĩnh vực tôn giáo mà nó đã được nhân dân ta đưa vào trong hệ thống kiến trúc cổ một cách đầy sáng tạo. Đó là hình thức chùa tháp hoa sen. Một trong những ngôi chùa “hoa sen” ra đời sớm nhất trong lịch sử kiến trúc Việt Nam là chùa Diên Hựu, (có nghĩa là sống lâu muôn tuổi còn tên chữ là “Liên Hoa Đài”(4). Chùa được xây dựng từ năm 1049 thời Lý phỏng theo chùa Nhất Trụ ở kinh đô Hoa Lư. Tại đây, hình tượng hoa sen không còn là sự mô phỏng thông qua các chạm khắc nữa mà nó đã trở thành một hiện thực rực rỡ bằng kiến trúc: một bông sen khổng lồ được đặt chính giữa hồ sen. Mỗi kiến trúc tháp lại mang trong mình những dấu ấn riêng của từng thời kỳ lịch sử. Trong số những bảo tháp còn lưu lại đến nay, duy chỉ còn có tháp Bình Sơn (tháp Then) và tháp Phổ Minh thời Trần là những tháp cao quý nhất dành cho những vị đắc đạo thành Phật, có công lớn trong việc hoằng dương Phật pháp. Đáng chú ý hơn cả là tháp Phổ Minh - tháp của vua Trần Nhân Tông với danh phong là Điều Ngự Giác Hoàng Tổ Phật. Có thể thấy, tháp Phổ Minh là đại diện tiêu biểu mang những đặc trưng của lối kiến trúc tháp thời Trần. Chúng mang tính cách là Tháp biểu tượng Phật. Những cây tháp này trước khi đi vào các tầng chính thức đều có phần bệ được chạm vòng quanh cả bốn mặt thành một đài sen lớn. Trong cấu trúc chùa Phổ Minh, còn một đặc trưng nổi bật nữa: đó là việc đào sâu sân tháp hơn sân chùa. Việc đào sâu móng này ngoài nhằm mục đích làm cho móng nền thêm chắc chắn, nó đã tạo một đường đi để các sư tăng khi thực hành nghi lễ kiểu chạy đàn. Đồng thời, thức kiến trúc này còn nhằm tạo ra biểu tượng một hồ nước nhấn mạnh cho hình tượng bông sen đá khổng lồ xòe nở. Lối kiến trúc này đã làm nên một cách điệu thật táo bạo, độc đáo, gây ấn tượng mạnh về hình tượng hoa sen nở trên mặt nước. Nếu như chùa Diên Hựu cho ta thấy hình tượng một bông hoa sen nghìn cánh dựng trên một cột trụ duy nhất làm trung tâm thì tháp chùa Phổ Minh gợi lên cho chúng ta một cái nhìn mới về sự phát triển một mô hình tháp nhiều tầng với dáng vẻ của hoa sen được hình dung thông qua các hình thức trang trí, chạm khắc trên thân tháp. Toàn bộ mô hình của cây tháp, khiến ta nhớ đến bức tranh Hoa Tạng thế giới trong kinh Tịnh Độ Tông, mà ngôi tháp giống như một sự hiện thực hóa của hình ảnh trong nghệ thuật kiến trúc. Hình dáng của hoa sen cũng như sự sinh trưởng của nó còn mang lại cho ta những liên tưởng sâu sắc về cuộc sống. Rễ sen ăn sâu dưới bùn đại diện cho đời sống vật chất, cọng sen vượt ngang qua mặt nước tượng trưng cho cõi trung giới, còn hoa nở trong không khí trên mặt nước lại biểu thị cho thế giới tinh thần. Sở dĩ, người ta cho rằng hoa sen gắn với đạo Phật, bởi ở trong hoa đã có quả hay còn gọi là: vị liên cố hoa(6) tượng trưng cho một ý nghĩa “nhân quả” của Phật pháp. Đức Phật Thích Ca cũng đã dùng chính những ý nghĩa vi diệu này của hoa sen để chỉ ra: phương tiện Phật hóa độ chúng sinh chính là Phật pháp Đại thừa(7). Trong đó, những mưu cầu giải thoát cho cá nhân được xem nhẹ mà đặt lên trên hết là sự mong muốn đi đến giải thoát cho tất cả, mong đem lại sự giác ngộ chân lý tới mọi chúng sinh trong cõi trần ai. Quan niệm nhân sinh đó của Phật giáo Đại Thừa cũng chính là triết lý Phật giáo của Thiền phái Trúc Lâm thời Trần. Đây là thiền phái lớn nhất thời Trần, do vua Trần Nhân Tông sáng lập ra, nhằm mục đích gom toàn dân từ xác thịt đến linh hồn vào một khuôn khổ do họ Trần đặt ra. Điều đó biến Phật phái Trúc Lâm trở thành hình thái về mặt ý thức hệ của bộ ba “tam vị nhất thể” gồm Phật - Vua - Cha, phương tiện đắc lực giúp nhà Trần cai trị con dân. Trong đó, Vua - Cha là điều đã có sẵn, các vua Trần chỉ sáng tạo thêm Vua - Phật. Đối với các vua Trần thì Vua chính là Thần, là giáo chủ. Nhà Trần đã thực hiện ý đồ đồng nhất Vua với Phật, biểu hiện rõ nét nhất chính là việc hư cấu, mô phỏng cuộc đời của Trần Nhân Tông từ lúc sinh thành cho tới khi lên ngôi rồi đắc đạo, giống như thái tử Siddnartha trở thành Phật Tổ. Tư tưởng Phật giáo đó còn được thể hiện qua lối bố cục kiến trúc của những ngôi chùa, tháp thời kỳ này. Cùng với sự ảnh hưởng của Phật giáo đại thừa, số lượng tượng Phật thời Trần trở nên tương đối nhiều. Do đó, tượng không đặt trong tháp mà được đưa vào trong một Phật điện to, rộng hơn. Điều đó đã khiến cho những cây tháp thời kì này không còn chiếm lĩnh được vị trí trung tâm như trước kia mà chỉ còn mang tính chất biểu tượng và được đẩy ra phía trước chùa. Tháp Phổ Minh, vươn cao sừng sững như nối trời và đất, dù cách xa hàng cây số, người ta vẫn có thể trông thấy. Nó không chỉ là điểm nhấn cho toàn thể kiến trúc chùa mà còn trở thành cánh cổng mở ra thế giới tâm linh cho hàng ngàn tăng ni, phật tử hướng về, tượng trưng cho Phật pháp vô biên, chiếu rọi ánh sáng luân lý đến thế giới trần tục, phổ độ muôn vạn chúng sinh. Như vậy, thông qua hình tượng hoa sen, những nghệ nhân thời Trần đã mang đến cách tiếp cận mới về đạo Phật thông qua kiến trúc, một cách thật cụ thể và hữu hình. Chú Thích: 1 Cầm (Vương Kim Phan Bá), Hoa sen với Đạo Phật, tư liệu viện mỹ thuật mã tài liệu TL- 95/ CĐ- 82. 2 Trần Lâm Biền (chủ biên), Trang trí trong mỹ thuật truyền thống của người Việt, Nxb Văn Hóa Dân Tộc, Tạp chí văn hóa nghệ thuật- Hà Nội- 2001. 3 Tống Trung Tín, Nghệ thuật điêu khắc Việt Nam thời Lý và thời Trần (thế kỷ XI- XIV), Viện Khảo Cổ Học, Nxb Khoa Học Xã Hội, Hà Nội 1997. 4 Vũ Tam Lang, Kiến trúc cổ Việt Nam, Nxb Xây dựng, 1991 5 Chu Quang Trứ, Mỹ thuật Lý Trần mỹ thuật Phật giáo, NXB Mỹ Thuật, 2001. 6 Một trong ba nghĩa thù thắng của hoa sen là trong khi hoa nở thì sen đã phát sinh. 7 Phật Thích Ca đã đem ba nghĩa vi diệu của hoa sen dụ với ba nghĩa của môn Quyền thực và môn Bản Tích. Trong đó, ý nghĩa đầu tiên của môn quyền thực là “vị thực thi quyền”có nghĩa:”Thật là cái diệu pháp của Phật tự chứng, còn quyền là cái phương tiện của Phật hóa độ chúng sinh. Phật từ thục pháp Đại thừa mà phương tiện ra vô lượng quyền giáo khiến cho tất cả chúng sinh đều có thể thành Phật quả. Đó là vì “thật” đặt ra”quyền” cũng đồng nghĩa với “vị liên cố hoa”. 8 Nguyễn Xuân Năm, Di tích chùa tháp Phổ Minh ở Nam Hà, Luận án phó tiến sĩ khoa học lịch sử |
VÕ CÔNG LIÊM
Bất cứ là văn, thơ hay biên khảo, ký sự… nói chung là viết.
HỒ THẾ HÀ
Lục bát là thể thơ đặc trưng thể hiện bản sắc và tâm hồn dân tộc Việt. Nó trở thành tình cảm, tâm thức sáng tạo và tiếp nhận của nhân dân từ ngàn đời nay, nó trở thành hữu thức và “vô thức tập thể” trong sinh hoạt tinh thần và sinh hoạt vật chất của toàn dân.
TRẦN HỮU SƠN
Đạo Mẫu là hình thức tôn giáo quan trọng ở Việt Nam. Hiện nay, đạo Mẫu đang có bước “chuyển mình” và phát triển mạnh mẽ cả về thiết chế và đối tượng tham gia. Vì vậy, đạo Mẫu đã thu hút được sự quan tâm của nhiều nhà khoa học.
ĐỖ LAI THÚY
Cuốn sách của giáo sư Trần Đức Thảo đề cập đến nhiều vấn đề, rộng và sâu. Bài báo này chỉ nói đến một luận điểm mấu chốt của ông, bản chất con người và những ngẫm nghĩ gợi ra từ đó, trong sự đối chiếu với văn học gần đây.
(Một vài trao đổi với nhà thơ Dương Tường)
NGÔ THẾ OANH
(thực hiện)
TRẦN HOÀI ANH
MAI LIÊN GIANG
(Qua công trình Phản ánh nghệ thuật trong mỹ học của Lukács György của Trương Đăng Dung)
LƯỜNG TÚ TUẤN
(Tặng Yến Linh và Thái Hạo)
“Hình thức nghệ thuật nếu được hiểu đúng thì nó không tạo hình thức cho một nội dung đã có sẵn và được tìm thấy, mà là cái hình thức cho phép lần đầu tiên tìm thấy và nhận ra nội dung” (M. Bakhtin).
ĐỖ QUYÊN
(Nhân đọc “Cái vú thừa” - tập truyện của McAmmond Nguyen Thi Tu, Nxb. Hội Nhà văn 2018)
PHẠM QUYÊN CHI
Tâm lí học cổ điển đã xây dựng nên sơ đồ quy nạp của quá trình hình thành các đơn vị cơ bản của tư duy - và khái niệm duy lí gắn liền với từ.
YẾN THANH
“Hoa dại như là niềm ân nghĩa. Nhìn hoa nghiệm ra sự hiện hữu của những gì tưởng đã tan loãng hư vô”
[Nhụy Nguyên]
JOSEPH HILLIS MILLER
Không phải ngẫu nhiên khi cho rằng quan niệm về cái kết ở trong truyện rất khó để xác định rõ ràng, cho dù là “về mặt lý thuyết”, hay với một cuốn tiểu thuyết nhất định, hoặc với các tiểu thuyết ở một thời kỳ nhất định. Quan niệm về cái kết ở trong truyện vốn dĩ là “không thể giải quyết được.” (undecidable).
NGUYỄN ĐỨC TÙNG
Tôi đọc trường khúc Mẹ Về Biển Đông của Du Tử Lê lần đầu giữa một mùa hè khô hạn, mặt đất nắng cháy nứt nẻ thoảng mùi hoa hồng dại, thứ cây mọc nhiều ở Alberta.
HỒ TIỂU NGỌC
Trong bầu không khí dân chủ tối đa và nhận thức tối đa của con người thời hậu chiến, nền thơ Việt Nam, trong đó có thơ nữ lại nhanh chóng hòa nhập và tạo ra những góc nhìn đa dạng về cuộc sống.
MAI AN NGUYỄN ANH TUẤN
Bài thơ chữ Hán Điệp tử thư trung (Con bướm chết trong sách) được xếp ở sát cuối phần Làm quan ở Bắc hà (1802 - 1804), trong Thanh Hiên thi tập(1).
TÔN NỮ DẠ NGUYÊN
(Khái lược về liên văn bản trong tác phẩm văn học)
NGUYỄN THỊ THÚY HẠNH
Nhà văn Diêm Liên Khoa đã từng thử sức ở nhiều thể loại văn học khác nhau: tiểu thuyết, truyện ngắn, truyện vừa, tùy bút, tản văn… nhưng tiểu thuyết vẫn là địa hạt mà ngòi bút ông bén rễ sâu nhất và đạt được nhiều thành tựu rực rỡ.
NGUYỄN VĂN HÙNG
(Đọc Thơ Việt Nam hiện đại - Thi luận và Chân dung của Hồ Thế Hà)
ĐOÀN ÁNH DƯƠNG
PHAN TUẤN ANH