Bây giờ là lúc...

17:06 29/12/2008
TRẦN HOÀI ANHBáo Văn nghệ trong lời giới thiệu những bài thơ mới nhất của Nguyễn Khoa Điềm số ngày 5/8/2006 cho biết: “Bây giờ ông đã trở về ngôi nhà của cha mẹ ông ở Huế. Tôi chưa bao giờ đến ngôi nhà ấy”. Còn tôi, người viết bài này đã có “cơ may” ở trọ tại ngôi nhà yên bình ấy trong những năm tám mươi của thế kỉ trước khi tôi đang là sinh viên ngữ văn Đại học Sư phạm Huế.

Mặc dù đã từng ở trọ nhà anh, từng trò chuyện với anh và giảng dạy thơ Nguyễn Khoa Điềm trong nhà trường nhưng chưa lần nào tôi nghĩ sẽ viết về thơ anh nhất là khi anh luôn thăng tiến trên con đường danh vọng. Nhưng đến lúc này, khi anh đã trở về với “ngôi nhà bình yên giữa cây cỏ, hoa lá”. Và khi đọc những bài thơ mới nhất của anh ở Văn nghệ (5/8/2006) và Tuổi trẻ (27/8/2006) tôi thấy như có gì thôi thúc trong lòng muốn viết một điều gì đó về thơ anh.
Quả thật, khác với giọng điệu thơ của Nguyễn Khoa Điềm trong những năm kháng chiến chống Mĩ cứu nước ở “Đất ngoại ô” (1973), “Mặt đường khát vọng” (1974), thơ anh đã có bước chuyển giọng điệu kể từ tập thơ “Ngôi nhà có ngọn lửa ấm” (1986) và “Thơ Nguyễn Khoa Điềm” (1990). Giọng điệu thơ anh ở các tập thơ này không còn là “giọng cao” của một thời “thơ ta ơi hãy cất cao tiếng hát” (Tố Hữu) khi anh và những thi sĩ cùng thời đều sống và chiến đấu thật trong sáng và lạc quan
“Ta đi bao năm gian khổ
Vẫn nghe hát dưới cội rừng”
                                           (Màu xanh lên đường)
Mà đã chuyển sang “giọng trầm” thấm đẫm nỗi niềm day dứt trước những biến sinh của đời sống, khiến anh nhiều khi cảm thấy xót xa.
“Những bài hát không ai hát nữa
Đã vỡ trên môi anh ngọn gió dịu dàng
................
Những con đường không ai trở lại
Đã xuyên qua anh những mạch máu âm thầm
.................
Những con người không ai gặp nữa
Đã đặt trên vai anh gánh nặng cuối cùng.”
                             (Những bài hát, con đường và con người)
Không đau xót sao được khi cuộc sống lúc bấy giờ là bao nỗi lo toan của chuyện cơm áo đời thường.
“Con chào đời
Không có mười hai bà mụ áo quần xanh đỏ ngồi bên
Mà hai mươi bốn khuôn dấu vuông tròn chứng nhận con
                                    trên đủ loại giấy tờ tem phiếu”
                                                           (Ngôi nhà có ngọn lửa ấm)
Cho đến những bài thơ đăng báo Văn nghệ và Tuổi trẻ hôm nay thì giọng thơ thế sự ấy đã được đẩy lên một cung bậc mới đầy chất triết lí nhân sinh. Có lẽ mọi con đường của thơ nói chung và của nhà thơ nói riêng suy cho cùng đều chảy về một biển. Đó là biển của cõi nhân gian, của những nghĩ suy về thân phận con người như nhà thơ Bùi Giáng đã suy ngẫm “Chúng ta là một hạt bụi giữa mịt mùng. Rủi ro là một hạt bụi biết đau khổ.(1)
Phải chăng những nghĩ suy của thi sĩ Bùi Giáng trên đây cũng là những suy nghiệm của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm trong những bài thơ của anh vừa công bố:
“Bây giờ là lúc có thể chia tay với
                                   điện thoại để bàn, cac vi-dit, nắm đấm mi-cro
Tự do lên mạng với đời sống, ăn ngủ với bụi đường
Một mình một ba lô và xe đạp
Bây giờ gió gọi anh đi
Mặt trời đánh nhịp về tám hướng
Từ giã cà vạt, giầy đen, lời trịnh trọng
Anh là một với cánh đồng, cánh hẩu với quán cóc, ăn chịu với cỏ.
Hò hát một mình, đọc những gì yêu thích,
                                                         ghi chép những gì cần ghi chép
Thế giới thật rộng, những ngã đường độ lượng”
                                                               (Bây giờ là lúc...)
Để rồi anh lại “định vị” cho mình, cũng là “định vị” cho thơ khi anh muốn “làm mới cuộc đời mình”, “Để là một người trong mọi người” sống gắn bó với cộng đồng, với làng xóm, quê hương. Đó là con đường trở về an nhiên nhất, sau những gì anh đã trải nghiệm trong cuộc sống. Tôi thật lòng chia sẻ với anh, một sự chia sẻ tri âm của người đọc với nhà thơ.
“Tôi trở về thành phố tuổi thơ
Sau bảy trăm cột cây số mải miết
Mỗi sớm mai, cùng với mặt trời
Tôi đạp xe dọc bờ sông
Hút tâm trí đường bơi những con bống cát.”
                                                               (Định vị)
Thật vậy, không phải ai từng bước lên đỉnh cao danh vọng, đã từng ở trong vòng xoáy của chốn quan trường mà khi trở về lại thanh thản đến thế. Vì vậy, tôi hoài nghi sự thanh thản này khi mới chỉ đọc 3 bài thơ đầu của anh đăng trên Văn nghệ. Nhưng khi đọc tiếp 3 bài thơ của anh đăng trên Tuổi trẻ chỉ cách nhau có ba tuần và hầu hết các bài thơ đều được viết trong tháng 7/2006 thì tôi tin sự thanh thản của anh là có thật. Phải chăng, đây là một ứng xử văn hoá, một nhân cách sống, đã làm nên một hệ giá trị mới cho thơ anh. Bởi lẽ, dẫu đó là những bài thơ được viết ra trong tháng 7 như thời gian ghi ở cuối các bài thơ, nhưng chắc hẳn không ai ngây thơ tin rằng đó là những cảm xúc chợt đến mà là những nghĩ suy của một quá trình nghiệm sinh từ chính cuộc đời thi nhận. Chính cốt cách này đã tạo cho thơ anh một dáng đứng vững chãi, không phải là “Dáng đứng Việt Nam tạc vào thế kỉ” trong thơ của một thời đã qua mà đó là dáng đứng “vô tư” của “con bò gặm cỏ”
“Đứng đấy tự bao giờ, bên dòng sông cũ
Con bò gặm cỏ
Chậm rãi
Một ít bóng đêm và ít hạt bình minh
Từng miếng một, nhai và thở
Không nghe tiếng người, tiếng xe cộ lại qua
Bụi bặm một ngày kiếm sống
Nó nghe thấy vị ngọt trong cọng cỏ.”
                                                          (Cỏ Ngọt)
Có quá lời chăng khi tôi nghĩ rằng hình tượng “con bò gặm cỏ” ở bài thơ này đã hiển lộ cái chất “thiền”, chất “triết lí” vốn là một nét phong cách trong thơ anh nói như Vũ Quần Phương: “Nguyễn Khoa Điềm thể hiện rõ một khuynh hướng trí tuệ trong các dạng thức cảm xúc. Đây vốn là mặt mạnh của anh ngay ở tập thơ đầu”. (2) Hình tượng ấy đã trở thành một điểm sáng thẩm mĩ, một nỗi ám ảnh từ trong vô thức thường xuất hiện trong thơ anh thể hiện một chiều sâu tâm cảm xoáy vào tâm thức người đọc như ở bài thơ “Chiều Hương Giang” mà anh đã viết trước đây:
“Nhưng chiều nay con bò gặm cỏ
Bên giòng sông chưa biết chiều tan
Tôi với nó lặng im bè bạn
Mắt nó nhìn dìu dịu nước Hương Giang”
Hình ảnh “Con bò gặm cỏ” rất đỗi bình thường hằng ngày ta vẫn thấy mà sao khi đọc thơ anh, tôi thấy lòng rưng rưng day dứt. Và tự nhiên có một mơ ước thành thực đến quái dị, không chỉ như anh làm bạn với con bò mà muốn mình được hóa thân thành “con bò gặm cỏ” vô tư, chậm rãi, không buồn nghe bất cứ xao động gì của đời sống ngoài kia, chỉ còn cảm nhận vị ngọt của cỏ.
Bởi vì:
“Giữa thế giới không nhiều may mắn
Ta học cách vừa lòng với mình
Chia sẻ sự bình tâm của cỏ”
                                                       (Hi vọng)
Ai có thể bình tâm trước đời sống có quá nhiều điều bất an!? Nhưng trong một không gian nào đó của cuộc sống, hay một thời gian nào đó của đời người nhiều khi chúng ta phải “học cách vừa lòng với mình”, học cách “bình tâm” nếu chúng ta không muốn mình bị loại ra khỏi “cuộc chơi” của “canh bạc” cuộc đời. Nhưng để giữ được là mình ta phải tự tạo sức đề kháng cho chính mình. Chính sức đề kháng này đã đưa anh trở về với tuổi thơ và cho anh niềm tin vào những điều tốt đẹp của cuộc sống.
“Nhiều khi đá dạy ta mềm mỏng
Sự tàn nhẫn nhắc ta điều lành
Nỗi buồn đánh thức hy vọng”
                                                      (Hy vọng)
Đồng thời nó cũng là một thứ thuốc thử trước những cám dỗ của lợi danh để những điều tốt đẹp trong tâm hồn anh được kết tủa, được toả sáng giúp anh gìn giữ nhân cách mình. Vì thế, anh luôn tự đối thoại với mình để làm một cuộc phản tỉnh, một sự phân thân nhưng không bao giờ đánh mất mình. Đó là điều đáng quí ở anh.
“Có khi giữa đêm chợt thức
Bồng bềnh ý nghĩ xót xa
Mình có thể, không thể?”
                                                 (Hy vọng)
Tôi nhớ một thiền sư đã nói đại ý: Sáng nay trước nghìn đạo quân không làm tôi sợ nhưng tối nay tôi sợ chính mình. Quả thật, cuộc đấu tranh với chính mình là cuộc đấu tranh gay go và khốc liệt nhất. Biết bao người đã không vượt qua chính mình đành “bị chấp nhận” hay “mặc nhiên chấp nhận” sự vong thân của mình để rồi họ đánh mất mình tự lúc nào mà chính họ cũng không nhận biết. Nguyễn Khoa Điềm thì khác, anh “chưa bị” đánh mất mình và cũng “không chịu” đánh mất mình vì không những anh luôn tự phản tỉnh mình mà còn biết cách tự giữ mình.
Cho dù:
“Không còn cách nào khác
Dù bị chặn hết mọi ngả về”
                                                         (Hi vọng 2)
Song anh:
“Vẫn hi vọng vào lòng tốt -
Lòng tốt của anh, lòng tốt mọi người
Để đứng cao hơn cái chết”.
                                                           (Hi vọng 2)
Như một chân lý vĩnh hằng, cuộc chiến đấu chống lại cái ác giữa cuộc đời này không hề đơn giản chút nào. Nhất là nhiều khi cái ác ấy lại được ngụy tạo bằng những danh từ hào nhoáng hoa mỹ. Nhưng tôi tin rằng dù ngụy tạo cách nào thì cái ác cuối cùng vẫn phải phơi bày chân tướng của nó. Thơ Nguyễn Khoa Điềm đã giúp chúng ta tin vào điều hằng cửu này. Đó là một tất yếu những không phải ai cũng ngộ ra mà nhiều khi họ đắm chìm trong bến mê ấy một cách “tự nhiên, nhi nhiên” để rồi đến cả niềm vui, nỗi buồn của họ cũng không bao giờ có thật. Họ biến mình trở thành một thứ robot, một thứ tắc kè hoa luôn đổi màu trước những biến sinh của đời sống. Và để tồn tại họ chấp nhận đánh mất mình, chấp nhận sống chung với các ác. Nhưng ở anh thì khác! Bằng tâm linh và sự thấu thị của một thi nhân, anh đã nhận thấy:
“Nỗi buồn thăm thẳm chỉ có anh biết được
Chỉ có anh đếm được bằng tay những đốt sống và
                                                            xương sườn của mình
Trước kết cục bụi bặm
Chỉ có anh
Trông mong sức mạnh của lòng tốt
Vốn lẻ loi
Vốn chua xót
Chỉ có lòng tốt
Dù anh đến cuối đời này
Để gặp hạnh phúc”
                                                (Hi vọng 2)
Niềm tin vào lòng tốt của con người ở Nguyễn Khoa Điềm không phải là một ngẫu hứng một thứ khẩu hiệu mà đó là một tuyên ngôn nghệ thuật, một quan niệm sống như chính lời “Tự bạch” của anh:
“Tôi nghĩ có ba yếu tố làm nên phẩm chất của văn chương,
đó là Lời - Hành động - Tấm lòng.
................
Có lời hay, có khát vọng hành động mạnh mẽ, nhưng thiếu đi tấm lòng nhân hậu, cao thượng thì vẫn chưa thể có văn hay.
Cho nên có sách nói thuỷ tổ là lời, có sách nói thuỷ tổ là hành động cũng nên có sách thuỷ tổ là tấm lòng.” (3)
Và cũng như anh, tôi tin rằng “chỉ có lòng tốt” mới giúp con người tìm thấy hạnh phúc, một thứ “của cải” không dễ gì tìm thấy giữa chốn nhân gian nầy. Riêng với Nguyễn Khoa Điềm tôi nghĩ anh sẽ có hạnh phúc trong những ngày còn lại của đời mình. Một hạnh phúc thật sự nhờ anh biết “vịn” vào lòng tốt và “vịn” vào những câu thơ để vui sống. Bởi nói như Cyprian Norwid, một nhà thơ Ba Lan “Thế giới nầy rốt cuộc còn lại hai thứ, chỉ hai thứ thôi: thi ca và lòng nhân ái... Không còn gì khác”.
Và tôi nghĩ Nguyễn Khoa Điềm đã nhận ra chân giá trị mà nhà thơ Ba Lan kia đã nói. Cho nên, anh đã trở về với thơ như trở về ngôi nhà “hữu thể của mình”. Đó là ngôi nhà của “Mẹ và Thơ”. Cuộc trở về sau một thời gian “xa mặt” nhưng chẳng “cách lòng”. Vì thế, anh vẫn hiệu hữu cùng với nàng thơ. Thơ anh vẫn tươi trẻ, vẫn sung túc, vẫn còn nguyên sự chiêm nghiệm như ngày nào trong lòng người đọc. Bởi anh là người luôn biết sống:
“Hãy lộn ngược da anh
Và ghi lên đó mật khẩu
Không lùi bước!”
                                            (Bây giờ là lúc....)
  Quảng Ngãi, 27-8-2006
T.H.A

(nguồn: TCSH số 212 - 10 - 2006)

 



-----------
(1) Bùi Giáng, nhân đọc “Rừng Phong” (Vũ Hoàng Chương), Văn số 150 ra ngày 15/3/1970, tr 47).
(2) Vũ Quần Phương “
Ngôi nhà có ngọn lửa ấm”, Tác phẩm văn học số 4 tháng 1-2-1988, trang 216).
(3) Nhà văn Việt Thế kỷ XX (tập 2) Nxb. Hội Nhà Văn, Hà Nội, 1999, trang 178-179).

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • TRẦN VĂN LÝAi sản xuất lốp cứ sản xuất lốp. Ai làm vỏ cứ làm vỏ. Ai làm gầm cứ làm gầm. Nơi nào sản xuất máy cứ sản xuất máy. Xong tất cả được chở đến một nơi để lắp ráp thành chiếc ô tô. Sự chuyên môn hoá đó trong dây chuyền sản xuất ở châu Âu thế kỷ trước (thế kỷ 20) đã khiến cho nhiều người mơ tưởng rằng: Có thể "sản xuất" được thơ và sự "mơ tưởng" ấy vẫn mãi mãi chỉ là mơ tưởng mà thôi!

  • HOÀNG VŨ THUẬTChúng ta đã có nhiều công trình, trang viết đánh giá nhận định thơ miền Trung ngót thế kỷ qua, một vùng thơ gắn với sinh mệnh một vùng đất mà dấu ấn lịch sử luôn bùng nổ những sự kiện bất ngờ. Một vùng đất đẫm máu và nước mắt, hằn lên vầng trán con người nếp nhăn của nỗi lo toan chạy dọc thế kỷ. Thơ nảy sinh từ đó.

  • BÙI QUANG TUYẾNThơ mới là một hiện tượng nổi bật của văn học Việt Nam nói chung và thơ ca nói riêng trong thế kỷ XX. Nó vừa ra đời đã nhanh chóng khẳng định vị trí xứng dáng trong nền văn học dân tộc với các "hoàng tử thơ": Thế Lữ , Xuân Diệu, Huy Cận, Lưu Trọng Lư, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử v.v... Đồng thời, Thơ mới là một hiện tượng thơ ca gây rất nhiều ý kiến khác nhau trong giới phê bình, nghiên cứu và độc giả theo từng thời kỳ lịch sử xã hội, cho đến bây giờ việc đánh giá vẫn còn đặt ra sôi nổi. Với phạm vi bài viết này, chúng tôi điểm lại những khái niệm về Thơ mới và sự đổi mới nghệ thuật thơ của các bậc thầy đi trước và tìm câu trả lời cho là hợp lý trong bao nhiêu ý kiến trái ngược nhau.

  • MẠNH LÊ Thơ ca hiện đại Việt Nam thế kỷ XX đã thu được những thành tựu to lớn đóng góp vào sự phát triển của lịch sử thơ ca dân tộc. Đặc biệt từ ngay sau Cách mạng tháng 8 năm 1945, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời thay thế chế độ phong kiến thực dân hơn trăm năm đô hộ nước ta cùng với khí thế cách mạng kháng chiến cứu nước theo lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh tháng 12 năm 1946 đã thổi vào đời sống văn học một luồng sinh khí mới để từ đó thơ ca hiện đại Việt Nam mang một âm hưởng mới, một màu sắc mới.

  • NGUYỄN KHẮC THẠCHNếu gọi Huế Thơ với tư cách đối tượng thẩm mĩ thì chủ thể thẩm mĩ của nó trước hết và sau cùng vẫn là sự hoá sinh Thơ Huế. Đương nhiên, không hẳn chỉ có Thơ Huế mới là chủ thể thẩm mĩ của Huế Thơ và cũng đương nhiên không hẳn chỉ có Huế Thơ mới là đối tượng thẩm mĩ của Thơ Huế. Huế Thơ và Thơ Huế vẫn là hai phạm trù độc lập trong chừng mực nào đó và có khi cả hai đều trở thành đối tượng thẩm mĩ của một đối tượng khác.

  • ĐỖ LAI THÚYThanh sơn tự tiếu đầu tương hạc                                  Nguyễn KhuyếnNói đến Dương Khuê là nói đến hát nói. Và nói đến hát nói, thì Hồng Hồng, Tuyết Tuyết làm tôi thích hơn cả. Đấy không chỉ là một mẫu mực của thể loại, mà còn làm một không gian thẩm mỹ nhiều chiều đủ cho những phiêu lưu của cái đọc.

  • NGUYỄN NGỌC THIỆNHải Triều tên thật là Nguyễn Khoa Văn, sinh năm 1908 trong một gia đình Nho học, khoa bảng. Năm 20 tuổi, trở thành đảng viên trẻ của Tân Việt cách mạng Đảng, Nguyễn Khoa Văn bắt đầu cầm bút viết báo với bút danh Nam Xích Tử (Chàng trai đỏ). Điều này đã khiến trong lần gặp gỡ đầu tiên, người trai có "thân hình bé nhỏ và cử chỉ nhanh nhẹn theo kiểu chim chích" (1) ấy đã gây được cảm tình nồng hậu của Trần Huy Liệu- chủ nhiệm Nam Cường thư xã, người bạn cùng trang lứa tuy vừa mới quen biết, nhưng đã chung chí hướng tìm đường giải phóng cho dân tộc, tự do cho đất nước.

  • TÔ VĨNH HÀ Huế đang trở lạnh với "mưa vẫn mưa bay" giăng mờ như hư ảo những gương mặt người xuôi ngược trên con đường tôi đi. Tôi giật mình vì một tà áo trắng vừa trôi qua. Dáng đi êm nhẹ với cánh dù mỏng manh như hơi nghiêng xuống cùng nỗi cô đơn. Những nhọc nhằn của tuổi mơ chưa đến nỗi làm bờ vai trĩu mệt nhưng cũng đủ tạo nên một "giọt chiều trên lá(1), cam chịu và chờ đợi nỗi niềm nào đó hiu hắt như những hạt mưa...

  • NGUYỄN HỒNG DŨNG1. Một cuộc đời lặng lẽ và những truyện ngắn nổi danhO' Henry, tên thật là William Sydney Porter, được đánh giá là người viết truyện ngắn xuất sắc nhất của nước Mỹ những năm đầu thế kỷ XX. Ông sinh tại Greenboro, tiểu bang North Carolina vào năm 1862. Năm 15 tuổi (1877), ông thôi học và vào làm việc trong một hiệu thuốc tây. Vào tuổi hai mươi, ông bị đau nặng và sức khoẻ sa sút nên đã đến dưỡng sức ở một nông trại tại tiểu bang Texas. Ông đã sống ở đấy hai năm, đã làm quen với nhiều người và hiểu rất rõ tính cách miền Tây. Sau này, ông đã kể về họ rất sinh động trong tập truyện ngắn có tựa đề đầy xúc cảm Trái tim miền Tây.

  • MAI KHẮC ỨNGCó thể sau khi dẹp được loạn 12 sứ quân, Đinh Tiên Hoàng (968- 979) thống nhất lãnh thổ và lên ngôi hoàng đế, đã đặt được cơ sở ban đầu và xác định chủ quyền Đại Cồ Việt lên tận miền biên cương Tây Bắc vốn là địa bàn chịu ảnh hưởng Kiểu Công Hãn. Trên cơ sở 10 đạo thời Đinh nhà vua Lý Thái Tổ (1010- 1028) mới đổi thành 24 phủ, lộ. Nguyễn Trãi viết Dư địa chí (thế kỷ XV) vẫn giữ nguyên tên gọi đạo Lâm Tây. Tức vùng Tây- Bắc ngày nay.

  • TRẦN ANH VINHÂm vang của những sự kiện xẩy ra năm Ất Dậu (1885) không những vẫn còn đọng trong tâm trí người dân núi Ngự mà còn được ghi lại trong một số tác phẩm. Bài vè “Thất thủ Kinh đô” do cụ Mới đi kể rong hàng mấy chục năm ròng là một tác phẩm văn học dân gian, được nhiều người biết và ngưỡng mộ. Riêng Phan Bội Châu có viết hai bài:+ Kỷ niệm ngày 23 tháng Năm ở Huế (Thơ)+ Văn tế cô hồn ngày 23 tháng Năm ở Kinh thành Huế.

  • HOÀNG CÔNG KHANHCó một thực tế: số các nhà văn cổ kim đông tây viết tiểu thuyết lịch sử không nhiều. Ở Việt Nam càng ít. Theo ý riêng tôi nguyên nhân thì nhiều, nhưng cơ bản là nhà văn viết loại này phải đồng thời là nhà sử học, chí ít là có kiến thức sâu rộng về lịch sử. Cũng nhiều trường hợp người viết có đủ vốn liếng cả hai mặt ấy, nhưng hoặc ngại mất nhiều công sức để đọc hàng chục bộ chính sử, phải sưu tầm, dã ngoại, nghiên cứu, đối chiếu, chọn lọc hoặc đơn giản là chưa, thậm chí không quan tâm đến lịch sử.

  • TRƯƠNG ĐĂNG DUNG                 Tặng Đỗ Lai ThuýChủ nghĩa hiện đại là kết quả của những nỗ lực hiện đại hoá đời sống và tư duy xẩy ra từ những năm cuối của thế kỷ XIX, ở Châu Âu. Những thành tựu nổi bật của khoa học tự nhiên, của triết học, xã hội học và tâm lí học đã tác động đến cách nghĩ của con người hiện đại trước các vấn đề về tồn tại, đạo đức, tâm lí. Tư tưởng của Nietzsche, Husserl, hay Freud không chỉ ảnh hưởng đến tư duy hiện đại mà tiếp tục được nhắc đến nhiều ở thời hậu hiện đại.

  • ĐẶNG TIẾNTân Hình Thức là một trường phái thi ca hiện đại được phổ biến từ năm bảy năm nay, phát khởi do Tạp Chí Thơ, ấn hành tại Mỹ, chủ yếu từ số 18, xuân 2000 “chuyển đổi thế kỷ”, và được nhiều nhà văn, nhà thơ trong và ngoài nước hưởng ứng. Tên Tân Hình Thức dịch từ tiếng Anh New Formalism, một trường phái thơ Mỹ, thịnh hành những năm1980 - 1990.

  • NGUYỄN ĐĂNG ĐIỆP Một ngày kia, cát bụi vùng Hoan Diễn đã sinh tạo một “kẻ ham chơi”. Y cứ lãng đãng trong đời như một khách giang hồ mang trái tim nhạy cảm, một trái tim đầy nhạc với những đốm lửa buồn. Để rồi sau những cuộc say tràn cung mây, khi dòng cảm hứng chợt bùng lên từ những vùng u ẩn nằm sâu trong cõi nhớ, những giai âm ùa về như những luồng điện làm vỡ òa bí mật: có thương có nhớ có khóc có cười- có cái chớp mắt đã ngàn năm trôi. Đây là những câu thơ khép lại một trong những bài thơ hay nhất của Nguyễn Trọng Tạo: Đồng dao cho người lớn(1).

  • NGUYỄN KHẮC PHÊTừ lâu, ở Huế, nhiều người đã biết tiếng ba công chúa, ba nữ sĩ (Tam Khanh) con vua Minh Mạng, em gái nhà thơ nổi tiếng Tùng Thiện Vương Miên Thẩm, trong đó MAI AM là người được nhắc đến nhiều nhất. Mai Am nổi tiếng trước hết vì tài thơ và cùng vì cuộc đời riêng không được may mắn của bà, tuy bà là người sống thọ nhất trong “Tam Khanh”.

  • LÊ DỤC TÚCùng với nghệ thuật tiếp cận và phản ánh hiện thực, nghệ thuật miêu tả và khắc họa chân dung nhân vật, nghệ thuật châm biếm và sử dụng ngôn ngữ cũng là một trong những nét nghệ thuật đặc sắc ta thường gặp trong các phóng sự Việt Nam 1932 - 1945.

  • NGUYỄN VĂN DÂNTrong thế kỷ XX vừa qua, thế giới, đặc biệt là thế giới phương Tây, đã sản sinh ra biết bao phương pháp phục vụ cho nghiên cứu văn học, trong đó phương pháp cấu trúc là một trong những phương pháp được quan tâm nhiều nhất.

  • AN KHÁNHHai mươi tám năm kể từ ngày chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam, đủ để một thế hệ trưởng thành, một dòng thơ định vị. Tháng 3 vừa qua, Hội Văn nghệ Hà Nội và nhóm nhà thơ - nhà văn - cựu binh Mỹ có cuộc giao lưu thú vị, nhằm tìm ra tiếng nói "tương đồng", sự thân ái giữa các thế hệ Mỹ - Việt thông qua những thông điệp của văn chương.

  • TRẦN ĐÌNH SỬ Bạn đọc Việt Nam vốn không xa lạ với phê bình phân tâm học hơn nửa thế kỷ nay, bởi nó đã bắt đầu được giới thiệu vào nước ta từ những năm ba mươi, bốn mươi thế kỷ trước. Nhưng đáng tiếc nó đã bị kỳ thị rất nặng nề từ nhiều phía. Giống như nhân loại có thời phản ứng với Darwin vì không chấp nhận lý thuyết xem con người là một loài cao quý lại có thể tiến hóa từ một loài tầm thường như loài khỉ, người ta cũng không thể chấp nhận lý thuyết phân tâm học xem con người - một sinh vật có lý trí cao quý lại có thể bị sai khiến bởi bản năng tầm thường như các loài vật hạ đẳng!