Baudelaire và bài thơ “những con mèo”

09:10 24/11/2009
ĐÀO DUY HIỆP"Ngữ pháp, ngữ pháp khô khan chính nó, trở thành cái gì đó như một thuật phù thủy, gọi hồn; các từ sống lại, được cấp xương thịt, danh từ trong dáng vẻ tôn nghiêm bản thể của nó, tính từ, trang phục trong suốt khoác lên nó và nhuộm sắc cho nó một lớp tráng, còn động từ, thiên thần của vận động, mang lại cho câu sự động dao" (Baudelaire) (1)

Nhà thơ Pháp Charles Baudelaire - Ảnh: wikipedia.org






          Những con mèo

            1.Những tình lang nhiệt tâm và những nhà thông thái nghiêm trang
            2.Như nhau cùng yêu, vào mùa đời đã chín,
            3.Những con mèo, niềm kiêu hãnh của ngôi nhà, dịu hiền và mạnh mẽ,
            4.Chúng giống họ co ro và như họ ẩn cư.

            5.Là bạn hữu của tri thức và du khoái,
            6.Chúng kiếm tìm sự lặng yên và điều ghê hãi của tối tăm
            7.Âm phủ hẳn đã nhận chúng làm những con tuấn mã xe tang,
            8.Nếu chúng chịu nghiêng lòng tự tôn của mình vào nơi phục dịch.

            9.Trong mơ mòng chúng mang dáng điệu quý phái
            10.Của những con nhân sư vĩ đại duỗi dài tới thẳm sâu của những đơn côi,
            11.Như đang thiu ngủ trong một giấc mơ miên viễn;

            12.Lưng cật sung mãn của chúng tràn ngập những tia chớp diệu huyền,
            13.Cùng những vẩy vàng, như cát mịn,
            14.Nhấp nháy mơ hồ những vì sao đôi con ngươi thần bí của chúng.
                                                (Đ.D.H. dịch)

Baudelaire (1821 - 1867) là một thiên tài thơ nổi loạn. Tập thơ "Hoa Ác" của ông là "bình minh của cái đẹp toát ra từ đêm đen của cái ác". Các "khoảng trắng" đa âm, mơ hồ của tiểu thuyết "Bà Bovary" (1856) cùng với "một thế giới vỡ vụn", đứt đoạn của "Hoa Ác"  (1857) đã khiến từ nửa sau thế kỷ XIX trở đi văn chương Pháp rẽ sang một hướng mới - tính hiện đại (modernité). Thế gới thơ baudelairien thể hiện cái mâu thuẫn, cái lưỡng phân của con người hiện đại. Ngay cả trong những bài thơ tưởng như dễ đọc vẫn gây những ám gợi, liên tuwỏng xa xôi. "Những con mèo" nằm trong trường hợp như thế được sáng tạo từ Baudelaire "Nhà thơ của  những con mèo" - Poète des chats (Jacobson - Strauss).

Trong "Hoa Ác" có ba bài về mèo, hai bài có nhan đề ở số ít, riêng một bài ở số nhiều: Những con mèo mà chúng ta đang đề cập. Bài thơ đã được nhà thơ Vũ Đình Liên dịch trong tập "Thơ Baudelaire", Nxb Văn Học, năm 1995, trang 100. Trên Tạp chí Văn Học số 7/1997 cũng đã được MH và TBĐ dịch lại nhân giới thiệu lướt qua khá thành công những phần phù hợp với độc giả Việt Nam bài nghiên cứu tài năng của hai nhà cấu trúc học hàng đầu thế giới là R.Jacobson và L.Strauss về bài thơ này. Bài nghiên cứu rất tỉ mỉ về hiệp vần, danh từ, tính từ, động từ, dấu câu, cấu trúc ngữ pháp, các khổ thơ, không - thời gian, các hình ảnh tương ứng nhau, nhân vật (động vật/ phi động vật)... một cách rất thuyết phục, rất sâu. Jacobson và Strauss đã làm"nổ tung", "tháo rời" văn bản thơ Baudelaire qua 19 trang in chữ nhỏ để tìm ý nghĩa bài thơ của một thiên tài không hề là "tự phát" như chúng ta có thể thấy phần nào những phát biểu rất có ý thức về chức năng ngữ pháp, ngôn từ của Baudelaire ở phần đầu bài viết này.

Ngay trong khổ thơ đầu, "Những con mèo" của Baudelaire đã mang hai đặc tính: "dịu hiền và mạnh", tương hợp với cách nhìn: "vừa dịu dàng vừa vờ vĩnh" trong biểu tượng. Tuy nhiên, sang khổ 2, chúng đã được nhà thơ nhân hóa: "Là bạn hữu của tri thức và du khoái" ứng đối trực tiếp với câu đầu tiên của khổ đầu tiên: tình lang và nhà thông thái. Là bạn hữu, trong nó hiển nhiên có cả sự nhiệt tâm của người tình và tính nghiêm trang của nhà thông thái. Ngay trong nội tại một sinh vật đã ẩn tàng hai đặc tính của người, nhất là đặc tính "tri thức" (science). Hai đặc tính này nếu không loại trừ nhau hoàn toàn cũng rất khó kết hợp một cách nhịp nhàng trong một con người, chúng mâu thuẫn nhau, "cái này giết chết cái kia". Song con mèo của Baudelaire do được thừa hưởng từ "mẫu gốc" "sức mạnh và sự khéo léo", tinh ranh, đã được "nâng cấp" lên ngang hàng người trong khi loại trừ những yếu tố linh thiêng, ma thuật.

Đặc biệt ở hai câu 7 và 8, mèo mang tính chất tôn giáo được giả định "phục dịch" nơi âm phủ, nhưng nó không canh gác cây cầu để vứt xác những linh hồn tội lỗi xuống nước âm phủ mà làm ngựa kéo xe tang. Hình ảnh mèo được "chắt" ra từ "mẫu gốc", nhưng đã được "huyền thoại hóa" đi từ thế chủ động sang thế bị động, bị cưỡng bức bằng lao động dẫu nơi đó (âm phủ) là linh thiêng, cao quý với vị trí, thân phận của nó. Nhưng do "lòng tự tôn" mà nó không chịu làm điều đó. Chúng ta nói: "Không trâu bắt mèo cày ruộng" nằm trong tư duy dân gian về cái phi lý, bần cùng, nói ngược và thấp thoáng sự hài hước, xót xa. Sau cùng, trong hai câu thơ trên đây, âm phủ đồng nghĩa cới cái chết, sự tối tăm, ảm đạm lại được đến ngay sau hàng loạt các hình ảnh về hoạt động của sự sống thực, nó đối lập với "ngôi nhà": hai thế giới mau thuẫn nhau thường thấy trong thơ Baudelaire. Ngay sau hình ảnh về âm phủ tối tăm lại đến sự chói chang của nắng thông qua ẩn dụ về con nhân sư, đầu đàn bà mình sư tử tượng trưng cho Mặt trời - một biến hình tiếp theo của mèo. Toàn bộ hai khổ thơ cuối cùng của bài xon-nê mang một không khí vừa thực vừa "siêu thực" (Jacobson-Strauss), vừa về con mèo ở khắp mọi nơi, vừa "thần bí" hơn bản thân nó rất nhiều. Tài thấu thị của nó, cuói cùng, nằm trong "đôi con ngươi thần bí" (prunelles mystiques).

Các con mèo trong sáng tác của M.Aymé hoặc của Apollinaire không có "dáng vẻ" như thế. M.Aymé có tập truyện "Con mèo ú tim" Alphonse thông minh, nhạy cảm, đáng yêu, cả sự láu lỉnh, ranh mãnh, tập trung trong nó những ngụ ngôn về loài người. Tuy nhiên, có một chi tiết cầu mưa bằng cách gãi tai của mèo Alphonse lại gần gũi với phong tục của Cămpuchia nhốt mèo vào lồng, té nước (dù hình thức khác nhau vẫn cùng chung chức năng gọi mưa): từ trong sâu thẳm, mèo ở mọi nơi vẫn "gợi nhớ về trạng thái hỗn mang, nguyên thủy", nó liên quan đến hạn hán và thiên tai. (bản thân nó cũng ít tắm, sợ nước. "Meo meo meo rửa mặt như mèo/ Xấu xấu chẳng được mẹ yêu... là bài đồng dao hiện đại của trẻ em chúng ta). Như vậy, "nhân vật tích cực" của M.Aymé vẫn mang trong nó "tì vết" của cha ông chúng. Những tính cách "vờ vĩnh", "mơ màng", "quý phái", thiu ngủ"... ban ngày đã tự phủ nhận công lao bắt chuột về đêm của mèo và bị người đời cho là lười. Chả thế mà bố mẹ của hai bé gái, Delphine và Marinette (có lúc ngay chính cả các em) rất ghét Alphonse và có lần ông bố đã mang quẳng Alphonse ra sông cho chết đuối. Nhưng nhờ mưu mẹo của hai em và cả bầy gia súc mà Alphonse được cứu thoát... Hậu duệ cùng thế kỷ với con mèo "ngụ ngôn" có hậu này là "Chú mèo máy thông minh Đôrêmon" - "cơn sốt" yêu thương mỗi thứ sáu hằng tuần của các em nhỏ Việt Nam cách đây vài năm hẳn các bậc phụ huynh chúng ta còn nhớ. Con mèo cũng đã đi vào phim nhiêù tập theo kiểu "Hãy đợi đấy": Tom và Jerry - "ngụ ngôn" về sức mạnh ngu ngốc, mù quáng của mèo chả bao giờ thắng được sự ranh mãnh, láu lỉnh của chuột.

Trong tập thơ "Rượu", Apollinaire có một bài ngắn năm câu thể hiện ao ước của nhà thơ về ba điều: Tôi mong ước trong nhà:/ Một người vợ hiền thảo,/ Một con mèo lượn qua sách vở,/ Quanh năm có bạn bè/ Thiếu những điều đó làm sao tôi sống nổi" (3) Ba điều mà thực ra lại là bốn: Sách vở bị ẩn đi sau chủ từ mèo. Điều quan trọng nhất bị chìm đi, không có trong danh sách "trang trí" nội thất! Tát cả ba điều kia nếu không ồn ào thì cũng động đậy, riêng sách vở trung thành là im lặng, ẩn cư. Tuy nhiên, trở lại với những con mèo của hai người vừa nêu, chúng ta nhận thấy tính thuần chất ít ra là trên bề mặt văn bản mà không lấp lánh phát ra những ý tượng trưng hai mặt, mâu thuẫn như Những con mèo của Baudelaire. Điều đó xuất phát từ tính "nước đôi" vừa là cái này vừa là cái kia, vừa do nguồn gốc chung vừa nằm trong chủ ý riêng của nhà thơ về mèo. Tính cách người và những biến hình của mèo đã được Jacobson và Strauss phân tích rất sâu để cuối cùng đi đến kết luận: "đối với Baudelaire, hình ảnh mèo gắn bó chặt chẽ với hình ảnh người đàn bà..." (4) - có liên quan với các hình ảnh cụ thể trong hai bài thơ còn lại của tập. Tính cách ma thuật thay hình đổi dạng cũng như "lưng cật sung mãn" khơi gợi khả năng sinh sản cho thấy người đàn bà vừa tốt lành vừa độc hại, vừa là cái "siêu thời gian" vừa là cái thoáng qua để lại nỗi buồn chán bên cạnh sự khát khao lí tưởng, ngợi ca cuộc đời trong cái nhìn của Baudelaire. Hình ảnh người phụ nữ vừa âm u vừa tỏa sáng là một ám ảnh lớn, tuyệt vọng và khao khát vươn lên cái tuyệt đối của nhà thơ. Người đàn bà sẽ "rọi chiếu bóng tối lớn nhất và ánh sáng lớn nhất vào những giấc mộng của chúng ta".(5)

Mối quan hệ giữa ý dục (hữu thức hoặc vô thức) với trí năng được Schopenhauer ví như thằng mù khỏe mạnh cõng thằng què sáng mắt: Không phải bao giờ người chủ trí năng cũng sai khiến được và bắt được kẻ nô lệ ý dục phải tuân lệnh mình. Điều đó đã được Esope (VI-V tr. C.N) của Hi Lạp biểu đạt trong một hình ảnh tuyệt vời: Con mèo biến thành người đàn bà ngồi đoan trang ở góc phản cho đến khi con chuột chạy qua, lại trở lại nguyên hình mèo. Thiên tài thơ của Baudelaire đã được "đúc" ra từ những "mẫu gốc" biểu tượng và ngụ ngôn, có thực và siêu thực thật xa xưa như thế. Một mặt, Baudelaire đã cho chúng ta "hình ảnh mèo gắn bó chặt chẽ với hình ảnh người đàn bà", mặt khác, thật sâu xa, phải chăng đó cũng chính là bản năng vô thức "dịu hiền và mạnh mẽ", "Bản năng gốc", vẫn luôn luôn thức ngủ "đoan trang" trong mỗi chúng ta làm động lực cho sáng tạo, sự sống, tình yêu... Với "Những người khốn khổ", Victor Hugo đã từng tha thiết: "Trong đời chỉ có một điều ấy thôi : là yêu nhau".

Những ngày mùa đông Mậu Dần, 1998
Đ.D.H
(126/08-99)


---------------------------------------------
(1). Roman Jacobson, Questions de poétique. Ed. du Seuil, Paris, 1973. Tr.420.
(2).
Từ điển Biểu tượng văn hóa thế giới. NXB. Đà Nẵng - Trường Viết văn Nguyễn Du, 1997. Mục từ Mèo.
(3). Apollinaire,
Alcools, Gallimard, 1986.
(4). Roman Jacobson, S.đ.d. Tr.418.
(5).
Lịch sử văn học Pháp thế kỷ XIX, (Đặng Thị Hạnh - Baudelaire) Nxb. Ngoại văn, Hà Nội, 1990, Tr.302.





 

 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • VĨNH CAO - PHAN THANH HẢIVườn Thiệu Phương là một trong những Ngự uyển tiêu biểu của thời Nguyễn, từng được vua Thiệu Trị xếp là thắng cảnh thứ 2 trong 20 cảnh của đất Thần Kinh. Nhưng do những nguyên nhân lịch sử, khu vườn này đã bị triệt giải từ đầu thời vua Ðồng Khánh (1886-1889) và để trong tình trạng hoang phế mãi đến ngày nay. Trong những nỗ lực nhằm khắc phục các "không gian trắng" tại Tử Cấm Thành và phục hồi các khu vườn ngự của thời Nguyễn, từ giữa năm 2002, Trung tâm BTDTCÐ Huế đã phối hợp với Hội Nghệ thuật mới (Pháp) tổ chức một Hội thảo khoa học để bàn luận và tìm ra phương hướng cho việc xây dựng dự án phục hồi khu vườn này.

  • HỒNG DIỆUNhà thơ Cao Bá Quát (1809-1854) được người đời hơn một thế kỷ nay nể trọng, với cả hai tư cách: con người và văn chương. "Thần Siêu, thánh Quát", khó có lời khen tặng nào cao hơn dành cho ông và bạn thân của ông: Nguyễn Văn Siêu (1799-1872).

  • HÀ VĂN THỊNHI. Có lẽ trong nhiều chục năm gần đây của lịch sử thế giới, chưa có một nhà sử học nào cũng như chưa có một cuốn sách lịch sử nào lại phản ánh những gì vừa xẩy ra một cách mới mẻ và đầy ấn tượng như Bob Woodward (BW). Hơn nữa đó lại là lịch sử của cơ quan quyền lực cao nhất ở một cường quốc lớn nhất mọi thời đại; phản ánh về những sự kiện chấn động nhất, nghiêm trọng nhất đã diễn ra trong ba năm đầu tiên của thiên niên kỷ mới: sự kiện ngày 11/9, cuộc chiến tranh Afganistan và một phần của cuộc chiến tranh Iraq.

  • ĐẶNG TIẾN     (Đọc Hồi ức của Đại tướng Võ Nguyên Giáp)Một tờ báo ở ngoài nước đã giới thiệu bốn cuốn hồi ức của Đại tướng Võ Nguyễn Giáp mới xuất bản. Dĩ nhiên là một bài báo không thể tóm lược được khoảng 1700 trang hồi ký viết cô đúc, nhưng cũng lảy ra được những đặc điểm, ý chính và trích dẫn dồi dào, giúp người đọc không có sách cũng gặt hái được vài khái niệm về tác phẩm.

  • NGUYỄN THỊ ANH ĐÀO       (Đọc tập truyện ngắn “Trà thiếu phụ” của nhà văn Hồng Nhu – NXB Hội Nhà văn 2003)Tôi đã được đọc không ít truyện ngắn của nhà văn Hồng Nhu và hầu như mỗi tập truyện đều để lại trong tôi không ít ấn tượng. Trải dài theo những dòng văn mượt mà, viết theo lối tự sự của nhà văn Hồng Nhu là cuộc sống muôn màu với những tình cảm thân thương, nhiều khi là một nhận định đơn thuần trong cách sống. Nhà văn Hồng Nhu đi từ những sự việc, những đổi thay tinh tế quanh mình để tìm ra một lối viết, một phong cách thể hiện riêng biệt.

  • ĐỖ QUYÊN…Đọc thơ Bùi Giáng là thuốc thử về quan niệm thơ, về mỹ học thi ca. Đã và sẽ không ai sai nhiều lắm, cũng không ai đúng là bao, khi bình bàn về thơ họ Bùi. Nhắc về cái tuyệt đỉnh trong thơ Bùi Giáng, độ cao sâu tư tưởng ở trước tác Bùi Giáng nhiều bao nhiêu cũng thấy thiếu; mà chỉ ra những câu thơ dở, những bài thơ tệ, những đoạn văn chán trong chữ nghĩa Bùi Giáng bao nhiêu cũng bằng thừa…

  • LÊ THỊ HƯỜNGTrong căn phòng nhỏ đêm khuya, giai điệu bản sonat của Beethoven làm ta lặng người; một chiều mưa, lời nhạc Trịnh khiến lòng bâng khuâng; trong một quán nhỏ bên đường tình cờ những khúc nhạc một thời của Văn Cao vọng lại làm ta bất ngờ. Và cũng có thể giữa sóng sánh trăng nước Hương Giang, dìu dặt, ngọt ngào một làn điệu ca Huế khiến lòng xao xuyến.

  • NGÔ MINHĐến tập thơ chọn Giếng Tiên (*), nhà thơ - thầy giáo Mai Văn Hoan đã gửi đến bạn yêu thơ 5 tập thơ trữ tình, trong đó có hai tập thơ được tái bản. Đó là tập đầu tay Ảo ảnh, in năm 1988, tái bản 1995 và tập Hồi âm, in năm 1991, tái bản năm 2000. 15 năm xuất bản 7 đầu sách (2 tập tiểu luận) và đang có trong ngăn kéo vài tập bản thảo tiểu luận nữa, chứng tỏ sức sáng tạo sung mãn đáng nể trọng của một thầy giáo vừa dạy học vừa sáng tác văn chương.

  • NGUYỄN THỊ ANH ĐÀO        (Đọc tập thơ ''Độc thoại trước mặt trời'' của Trần Lan Vinh- NXB Văn học Hà Nội- 2003)Trên thi đàn văn học Việt Nam hiện đại, sự thiếu vắng những cây bút nữ đã trở thành một vấn đề cần được chú trọng. Hầu như mỗi khi phụ nữ cầm bút, điều họ quan tâm nhất đó là sự giải bày tâm sự với ngàn ngàn nỗi niềm trắc ẩn. Nếu viết là một cách để sẻ chia tâm sự thì Trần Lan Vinh là một trường hợp như thế.

  • NGUYỄN THANH TÚMùa đông năm ngoái, anh Đoàn Tuấn từ Hà Nội vào Huế giảng dạy lớp đạo diễn điện ảnh. Dù công việc khá bận rộn nhưng anh vẫn dành cho tôi không ít thời gian tâm sự, bởi ngoài tình cảm thân thiết anh còn là cấp trên của tôi ở toà soạn tạp chí Thế Giới Điện Ảnh. Trong những lần trò chuyện ấy, tôi thật sự bất ngờ khi nghe anh kể chuyện về cuốn sách anh sắp in ở Nhà xuất bản Trẻ mà nội dung của nó là câu hỏi hơn 20 năm nay vẫn luôn canh cánh trong tôi. Vốn dĩ Đoàn Tuấn là nhà biên kịch điện ảnh tên tuổi, anh đã có nhiều kịch bản phim nổi tiếng như: Chiếc chìa khoá vàng (1998), Ngõ đàn bà (1992), Đường thư (2003)...

  • MAI VĂN HOANNguyễn Khoa Điềm đến với thơ hơi muộn nhưng đã sớm định hình một phong cách riêng. Qua các tập Đất ngoại ô (1972), Mặt đường khát vọng (trường ca, 1974), Ngôi nhà có ngọn lửa ấm (1986), Thơ Nguyễn Khoa Điềm (1990), Cõi lặng (2007) ta bắt gặp những suy ngẫm của anh đối với nhân dân, đất nước; những chiêm nghiệm của anh về đời sống xã hội, nhân tình thế thái. Những chiêm nghiệm và suy ngẫm đó được thể hiện bằng một giọng thơ trầm tĩnh, bình dị, sâu lắng và khá hiện đại.

  • NGUYỄN QUANG HÀ       (Đọc Nỗi niềm để ngỏ của Lê Lâm Ứng - Nhà xuất bản Văn học 2002)Đọc thơ Lê Lâm Ứng để tìm những câu mượt mà thì hơi khó. Thảng hoặc lắm mới bắt gặp ở anh tâm trạng thư thái này:                Biết rằng trong cõi nhớ thương                Lạc nhau âu cũng lẽ thường vậy thôi

  • MAI VĂN HOANNguyễn Đắc Xuân không chỉ có chân trong Hội Nhà văn Việt Nam mà anh còn là hội viên Hội Lịch sử Việt Nam, hội viên Hội Nhà báo Việt Nam... Nhưng dù ở cương vị nào thì điều mà anh tâm huyết nhất vẫn là lịch sử và văn hóa Huế.

  • HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG   (Nhân đọc sách "Gió về Tùng Môn Trang" của Nguyễn Xuân Dũng)Tác giả cuốn sách này là một võ sư đệ bát đẳng huyền đai thuộc phái không thủ đạo, vừa là một nhà hoạt động thương trường nổi tiếng ở Mỹ. Nhưng cuốn sách này không hề bàn đến chuyện đấm đá hơn kém hoặc là chuyện mua bán lời lỗ mà bàn về cái TÂM. Tác giả tỏ ra hết sức chú trọng vũ đạo; nhất cử nhất động đều phải xuất phát từ cái TÂM, cái TÂM viết hoa.

  • TRẦN THUỲ MAI            (Đọc Uẩn khúc, tiểu thuyết của Hoàng Văn Bàng, NXB Thuận Hoá 2002)Câu chuyện xảy ra ở một vùng quê không xa lắm, với một tầm mức tai hại không lớn, gây một ảnh hưởng mới xem qua tưởng chừng không đáng kể. Một ông trưởng phòng ở huyện tham ô vài chục triệu thì đã thấm gì so với những câu chuyện động trời hàng ngày trên các báo, mà thủ phạm mang những chức tước lớn lao hơn, với những số tiền khổng lồ tới hàng nghìn tỉ!

  • MAI VĂN HOAN         (Giới thiệu các tác giả thuộc chi hội nhà văn Việt Nam tại Huế)Ngô Minh là một trong những nhà văn Việt Nam ở Huế được Đài truyền hình Cáp Việt Nam chọn giới thiệu tới 45 phút trong chương trình “Người của công chúng”. Tôi cũng được mời nói đôi lời về anh. Với tôi, Ngô Minh là người làm việc “tới số” và chơi cũng... “tới số”!

  • PHẠM XUÂN NGUYÊNCùng một kiếp bên trời lận đận                  (Bạch Cư Dị - Tỳ bà hành)Nhà văn Bùi Ngọc Tấn vừa cho ra mắt tác phẩm Rừng xưa xanh lá (Mười chân dung văn nghệ sĩ) tại Nhà xuất bản Hải Phòng (1/2003).

  • TÔ VĨNH HÀNhững trang viết sau cùng của một con người luôn luôn là điều thiêng liêng và không bao giờ hết bí ẩn. Vì sao lại dùng từ ấy chứ không phải là chữ kia; đề cập đến cái này chứ không phải là cái khác..? Rất nhiều câu hỏi sẽ đến với người đọc khi trước mắt ta là những ý tưởng hiện hữu sau cùng của một đời người - đặc biệt ở con người vĩ đại như Chủ tịch Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh là cái tên mà mỗi người Việt lúc đọc hay nói, không chỉ diễn đạt một quan niệm gần như vô hạn của nhận thức, mà hơn nhiều thế nữa - là âm sắc tuyệt vời của sự kết tụ những tinh hoa quý giá nhất của trái tim mình.

  • NGUYỄN TỐNGQuê hương đất nước và con người luôn có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ, tác động qua lại lẫn nhau trong suốt chiều dày của lịch sử dựng nước và giữ nước. Nó tự nhiên chan hoà đến mức như cá bơi quẫy giữa đại dương, chim tung cánh vô tư giữa bầu trời bát ngát. Đến lúc nào đó, khi con người rơi vào cảnh cá chậu chim lồng, tình cảm, ý thức về đất nước thiêng liêng mới trở nên ám ảnh day dứt.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ           (Đọc “Thân Trọng Một – con người huyền thoại” của Nguyễn Quang Hà)Đã từ lâu, tên tuổi anh hùng Thân Trọng Một trở nên thân quen với mọi người, nhất là với quân dân Thừa Thiên Huế; những “sự tích” về ông đã thành truyện “truyền kỳ” trong dân chúng và đã được giới thiệu trên nhiều sách báo. Tuy vậy, với “THÂN TRỌNG MỘT – CON NGƯỜI HUYỀN THOẠI”, lần đầu tiên, chân dung và những chiến công của ông đã được tái hiện một cách đầy đủ và sinh động nhất.