Báo xuân giữa sắc xuân - xưa và nay

09:18 25/01/2020

NGUYỄN THANH TÂM   

Báo tết - báo xuân đã trở thành một hoạt động thường niên mỗi dịp tết đến xuân về của những người làm báo Việt Nam. Dịp ấy, người đọc cũng háo hức chờ đón những số báo rực rỡ, tươi tắn, bừng lên như sắc hoa đón chào xuân ấm.

Báo Nam Phong (số xuân Mậu Ngọ 1918) - Tờ báo Tết đầu tiên - Ảnh: internet

Phải nói rằng, báo tết đã trở thành một nét văn hóa độc đáo, thú vị của người Việt. Thế nhưng, tục làm báo tết xuất hiện từ bao giờ? Báo tết có gì khác với những số báo thường ngày? Và, điều quan trọng hơn cả là: Điều gì ẩn chứa sau những tờ báo tết, khiến người ta háo hức chờ đón đến như vậy?
 

Theo vào những tư liệu hiện có, tạm thời có thể xác nhận Nam Phong (số xuân Mậu Ngọ - 1918) là tờ báo tết đầu tiên ở nước ta. Như thế, nét văn hóa này đã có lịch sử hơn 100 năm. Nhìn lại những số báo xuân xưa, lòng ta không khỏi bồi hồi, xốn xang vì cảm nhận được bước đi của thời gian, sự ngưng đọng của ý niệm con người trước vận hành miên viễn của vũ trụ. Số báo Nam Phong đánh dấu sự khởi đầu của một mĩ tục, đến giờ vẫn tỏa ra dư vị trong trời xuân thuở trước. Lời thưa trong số báo này định hình một sắc thái, dẫu đã qua cả trăm năm vẫn còn nguyên niềm hân hoan: “Cả năm có một ngày tết là vui. Vui ấy là vui chung cả mọi người, vui suốt trong xã hội […] Buổi đầu xuân năm mới, giời ấm khí hòa, cảnh vật tươi cười, lòng người hớn hở” (Lời thưa). Bởi thế, dù là tờ báo nghiêng về hàn lâm, học thuật, Nam Phong cũng phải chỉnh trang để trở nên “một cái quà phù hợp với cảnh năm mới”. Gác lại mọi bận bã ngày thường, Nam Phong nhắc con người về một mùa xuân mới, “nếm miếng bánh đường, nhắp chén rượu ngọt cho khoan khoái tinh thần […] Thắp hương, rải hoa, hun bút, mở giấy mà mừng tuổi cho nước nhà” (Lời thưa). Có lẽ, tinh thần ấy đã trở thành điển lệ cho tục làm báo tết hơn 100 năm qua.

Từ sau Nam Phong, mỗi dịp tết đến xuân về, người ta lại thấy xuất hiện những tờ báo rực rỡ sắc màu, nổi bật hơn hẳn các số báo thường ngày trong năm. Phụ nữ tân văn là một tờ báo của giới nữ ở Sài Gòn, từ 1930 cũng đã chú ý đến việc ấn bản số báo ngày tết. Tờ báo này nhấn mạnh: “Phụ nữ tân văn mở đầu khuôn mẫu của tờ báo xuân với kỹ thuật trình bày tiên tiến”. Đến số “Mùa xuân” (1932), Phụ nữ tân văn in rực rỡ với bìa đỏ chủ đạo hình một lọ hoa trên bàn bên cạnh tờ báo xuân tươi thắm. Tiếp theo, các số “Mùa xuân” (1933) bìa có hình các cô gái mặc áo dài, cầm hoa đi lễ chùa, số “Mùa xuân” (1934) có hình các cô gái xinh đẹp đang bơi thuyền… Các số này đều nổi bật với màu đỏ, vàng rạng rỡ, tươi vui.

Báo tết ở thời kỳ đầu được phát triển hoàn thiện hơn trong những ấn phẩm của Tự lực văn đoàn (hai tờ báo: Phong hóa - Ngày nay). Điểm qua các số báo xuân của Phong hóa - Ngày nay (số Xuân 1934, 1935, 1936, 1937, 1940…) dễ nhận ra khí sắc ngày xuân rộn ràng, tươi vui, phấn chấn. Từ tranh bìa đến các hình ảnh minh họa bên trong, từ nội dung bài vở đến cách trình bày bố trí, các số báo này đều nói lên tinh thần Âu hóa, tân thời, ánh sáng bừng lên giữa ngày xuân đất nước. Đó có thể là những bài mạn đàm về phong tục - tập quán ngày tết (Xuân về - Tứ Ly), bài tổng kết một năm đã qua, hình ảnh các cô các bà đi du xuân, tranh truyền thống, tráng pháo nổ, rượu Hồng Quý Hương, lịch vạn niên, củ thủy tiên, tấm thiệp mừng… Rõ ràng, không khí ngày xuân đã lan tỏa trên các mặt báo…

Thời gian vốn vô tính, vô hình, nhưng thời gian ghim vào ký ức con người bằng những đắp đổi, thăng trầm biến cải. Thời gian trong những hiện hình ấy trở thành lịch sử, thành văn hóa. Có những quãng đầy biến cố mà báo xuân cũng tĩnh lặng hơn, dành sự quan tâm cho cuộc chiến tranh vĩ đại của dân tộc. Tuy nhiên, trong những thời khắc trọng đại, thiêng liêng, báo xuân vẫn được nhắc đến một cách hân hoan. Chẳng hạn, tờ Văn nghệ Quân đội, số mùa xuân 1968 (Mậu Thân) với tiêu đề: “Xuân Thắng lợi”, bìa sử dụng hình ảnh tươi tắn, cách điệu bức tranh Hứng dừa (Tranh Đông Hồ) với hình ảnh các em thiếu nhi hái dừa, bên cạnh là chị dân quân, anh bộ đội. Số báo này đăng bài thơ chúc tên nổi tiếng của Bác Hồ (Xuân này hơn hẳn mấy xuân qua/ Thắng lợi tin vui khắp mọi nhà/ năm Bắc thi đua đánh giặc Mỹ/ Tiến lên! Toàn thắng ắt về ta). Xuân Bính Thìn (1976) là cái tết đầu tiên cả nước thống nhất. Tạp chí Văn nghệ Quân đội cũng mang một diện mạo khá tươi tắn. Bìa số này là bức tranh bột màu “Tấn công Đông Hà” (1972) gợi lên khí thế cả nước xung trận, dồn lực cho ngày đại thắng. Các trang tiếp theo có thơ chúc tết của Chủ tịch nước Tôn Đức Thắng, ảnh Bác Hồ, tên các bài thơ và một số hình minh họa cũng được thiết kế màu hồng tươi, làm mỗi trang tạp chí trở nên rạng rỡ.

Đất nước hòa bình, thống nhất, đổi mới, báo chí càng có điều kiện để thể hiện sắc màu tươi mới, ấm áp, no đủ của con người mỗi dịp tết đến xuân về. Trên bình diện không gian, từ trung ương tới địa phương, mọi tờ báo trên đất nước Việt Nam đều chuyển mình khoe sắc. Thật không quá lời khi nói rằng, báo tết như ngàn hoa đua nở giữa đất trời ấm áp, giao hòa. Từ các ấn phẩm của báo Nhân dân, Văn nghệ, Văn nghệ Quân đội, Quân đội nhân dân, Văn nghệ Công an, Hà Nội mới, Tuổi trẻ, Thanh niên, Tiền phong, Nông thôn ngày nay, Gia đình & Xã hội, Thể thao Văn hóa… đến các tờ văn hóa văn nghệ, chính trị xã hội nghề nghiệp ở địa phương hay các ban - bộ - ngành đâu đâu cũng nhận ra sắc xuân đang dâng tràn, lan tỏa.

Nhìn bao quát, đa phần các tờ báo tết đều sử dụng các màu rực rỡ, chủ đạo là màu đỏ, hồng, vàng. Trang bìa được thiết kế bắt mắt với hình ảnh các loài hoa khoe sắc ngày xuân, trẻ em, người già, nam thanh nữ tú, gia đình sum vầy đoàn tụ, bánh chưng xanh, hộp mứt đỏ, kẹo bánh ngày tết rộn rã, đầm ấm. Một số báo tùy thuộc vào lĩnh vực đặc thù hoặc chủ điểm của năm mà thiết kế có tính nhấn mạnh. Không thể thiếu được là những hình ảnh tượng trưng gắn với linh vật - con giáp của năm (Tí, Sửu, Dần, Mão…). Vẫn là một mạch nguồn chảy tự trăm năm, các số báo tết ngày nay cũng thường có bài bàn về các phong tục, tập quán, nét văn hóa ngày tết. Như một mâm cỗ thịnh soạn, số xuân có đủ đầy tất cả các món: thời đàm, chính trị xã hội, tiêu điểm, thơ, truyện, tản văn, tùy bút, bình luận, quảng bá, giới thiệu… Tùy mỗi tờ báo, mỗi đặc thù, chuyên môn, lĩnh vực mà tòa soạn biện bày sao cho hấp dẫn, lôi cuốn người đọc.

Ngày Xuân bay cao - Ảnh Bạch Nguyễn


Nếu báo xuân xưa nghiêng về ăn tết thì báo xuân nay có xu hướng nghiêng sang chơi tết, du xuân. Báo tết ngày nay đầu tư nhiều hơn cho những bài, hình ảnh du xuân, những địa điểm tham quan, du lịch trong dịp nghỉ tết. Một mảng khá nổi bật là những hoài niệm tết xưa trên báo nay với tâm sự trở về, hồi cố những nếp cũ còn vang bóng gắn với gia đình, bản quán, cố hương. Tuy nhiên, trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập sâu rộng, trước các khả năng và vận hội mới, báo xuân ngày nay cũng tăng cường việc quảng bá hình ảnh đất nước, con người, văn hóa Việt Nam. Trên mâm cỗ báo xuân, mỗi tờ báo đều thể hiện những nét đặc thù làm nên phong vị riêng. Chẳng hạn, tờ Tuổi trẻ (Xuân Bính Thân - 2016) gắn với chủ đề “Công dân trẻ toàn cầu”. Tuổi trẻ thủ đô (Xuân Mậu Tuất - 2018) nêu chủ đề “Trí tuệ Việt Nam”. Báo Nông thôn ngày nay (Xuân Đinh Dậu - 2017) nổi bật với chủ đề “Tự tình của núi”. Báo Hà Nội mới (Xuân Đinh Dậu - 2017): “Bản lĩnh và niềm tin”. Xuân Kỷ Hợi (2019), ấn phẩm Hà Nội mới hàng ngày lấy chủ đề “Niềm tin bứt phá”, Hà Nội mới cuối tuần: “Trầm tích Thăng Long”. Báo Thanh niên (Xuân Kỷ Hợi - 2019) nhấn mạnh tiêu điểm “Khởi nghiệp sáng tạo”… Các tờ báo khác như Văn nghệ, Nhân dân, Văn nghệ Quân đội… cũng thể hiện rõ không khí ngày tết với việc tăng số lượng trang, làm gộp số, in bìa mềm (đối với một số tờ báo thường ngày không in bìa), màu sắc rực rỡ tươi vui… Mỗi tờ báo thực sự là một món quà, một “miếng bánh đường”, “một ly rượu ngọt”, hòa hợp với đất trời và lòng người giữa độ xuân sang.

Một điểm dễ nhận ra là trong các số báo tết, người ta ít dùng các bài u ám, buồn bã, không đăng những tranh luận, tiêu cực… Có lẽ, xu hướng này bắt nguồn từ truyền thống kiêng kỵ những điều không may, không hay ngày đầu xuân năm mới. Báo xuân gắn với ngày xuân, tiết xuân cốt để vui, để tin tưởng, hi vọng, chờ đón, để lan tỏa những điều may mắn cho một năm mới, như lời chúc, lời nguyện cầu, thế nên sắc điệu cũng hợp với cảnh tình vì thế. Bên bàn trà ngày tết, bên hộp bánh mứt hồng, chén rượu thơm, bình hoa thắm, tờ báo xuân điểm tô làm tôn lên sự thong thả, đủ đầy, no ấm, dư giả. Ấy cũng là ngầm ý cho mùa xuân mới an lành, thịnh đạt. Mọi âu lo, bận bã, nhọc nhằn dường như tan biến trong không khí đầm ấm, tươi vui khi trời đất vào xuân.

Tết thì vẫn còn se lạnh, dù hơi xuân đã lan tỏa khắp chốn. Bởi vậy, ngoài ý nghĩa mô tả sức xuân, sắc xuân, tình xuân qua màu sắc, tranh ảnh, bài vở… thì hình thức mỗi tờ báo tết còn tương thích với khí xuân của đất trời nữa. Không ai có thể cầm một tờ báo rực rỡ giữa nắng hè chói chang mà thấy lòng thanh thỏa cho được. Trong cái se lạnh của đất trời, hơi ấm thoang thoảng giữa ngàn hoa, màu đỏ hồng tươi thắm của mỗi tờ báo xuân có lẽ cũng góp thêm sắc độ cho lòng người cảm thấy ấm áp hơn.

Báo tết xưa và nay, sau hơn 100 năm đã trở thành một nét văn hóa. Mỗi tờ báo như một mâm cỗ, một bữa tiệc ngày xuân. Và, người làm báo chính là người soạn sửa mâm cỗ ấy. Ai đi xa về gần, ai bôn ba lặn lội, ngày tết nhớ về nguồn cội cũng là nhớ về những ký ức đầm ấm, sum vầy bên người thân, gia đình với biết bao yêu thương, hi vọng gửi vào một mùa xuân mới. Báo tết gìn giữ ở đó những tự tình dân tộc buổi xuân về, như một dấu son giữa dòng thời gian.

N.T.T  
(TCSH372/02-2020)



 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • Trí thức là những người mà lao động hàng ngày của họ là lao động trí óc, sản phẩm của họ làm ra là những sản phẩm trí tuệ, nhưng sản phẩm ấy phải là những sản phẩm có ích cho xã hội...

  • Ở Huế ngày xưa, người học trò nào cũng có một “Tủ sách Học trò” riêng tư cho mình và nhà nào cũng có một “Tủ sách Gia đình” để dùng chung trong nhà. Người Huế rất trọng học vấn, rất trọng sự hiểu biết nên rất trọng sách. Vì vậy, họ cất sách rất kỹ. Họ thường cất sách để làm kỷ niệm riêng tư cho mình về sau đã đành mà họ còn cất sách để dành cho đám đàn em con cháu của họ trong gia đình, dùng mà học sau nầy. Người Huế nào cũng đều cùng một suy nghĩ là ở đời, muốn vươn lên cao thì phải học và đã học thì phải cần sách. Đối với họ, sách quý là vậy. Lễ giáo Khổng Mạnh xưa cũng đã đòi hỏi mỗi người Huế thấy tờ giấy nào rớt dưới đất mà có viết chữ Hán “bên trên” là phải cúi xuống lượm lên để cất giữ “kẻo tội Trời”! Người xưa cũng như họ, không muốn thấy chữ nghĩa của Thánh hiền bị chà đạp dưới chân.

  • 1. Trung tâm văn hóa tôi muốn đề cập ở đây là thành phố Huế của tỉnh Thừa Thiên Huế. Đã là một Trung tâm văn hóa thì bao giờ cũng quy tụ nhiều nhân tài lớn, trên nhiều lĩnh vực, từ mọi miền đất nước, thậm chí từ cả ngoài nước, trải qua nhiều thế hệ, nhiều thử thách khó khăn mới vun đắp lên nổi một truyền thống, mà có được truyền thống văn hóa lại càng khó khăn hơn. Trong bài viết này tôi chưa đề cập tới những nhà khoa học, những nhà văn hóa và văn nghệ sĩ xuất sắc đang sống và hoạt động tại Thừa Thiên Huế, mà tôi chỉ muốn nói tới chủ yếu các vị đã qua đời nhưng đã để lại dấu ấn sâu đậm, lâu dài cho mảnh đất này, góp phần quan trọng hình thành nên truyền thống văn hóa Huế.

  • Trên thế giới có nhiều nền văn hóa khác nhau. Trong mỗi nước, ngoài mẫu số chung về nền văn hóa của cả dân tộc, còn có văn hóa vùng miền được phân định căn cứ vào đặc điểm nhân văn riêng của từng nơi. Nơi nào có được tính cách nhân văn đặc thù thì nơi ấy có văn hóa địa phương hay văn hóa bản địa. Một từ mà các nhà văn hóa học năng sử dụng khi đề cập đến lĩnh vực này là “bản sắc”. Nếu dùng từ bản sắc làm tiêu chí để nhận diện văn hóa thì Việt Nam có nền văn hóa riêng của mình, trong đó có văn hóa Huế.

  • Tôi quê Hà Tĩnh, nhưng lại sinh ra ở Huế, khi ông cụ tôi ngồi ghế Phủ Doãn, tức là “sếp” cái cơ quan đóng bên bờ sông Hương ở giữa Bệnh viện Trung ương Huế và Trường Hai Bà Trưng - Đồng Khánh xưa, nay đang được xây dựng to đẹp đàng hoàng gấp nhiều lần ngày trước. (Thời Nguyễn phong kiến lạc hậu, nhưng lại có quy chế chỉ những người đậu đạt cao và thường là người ngoại tỉnh mới được ngồi ghế Phủ Doãn để vừa có uy tín, học thức đối thoại được với quan chức trong Triều, vừa tránh tệ bênh che hay cho người bà con họ hàng chiếm giữ những chức vụ béo bở. Nói dài dòng một chút như thế vì nhiều bạn trẻ thời nay không biết “Phủ Doãn” là chức gì; gọi là “Tỉnh trưởng” cũng không thật đúng vì chức Phủ Doãn “oai” hơn, do Huế là kinh đô, tuy quyền hành thực sự người Pháp nắm hầu hết).

  • *Từ tâm thức kính sợ trời đất đến lễ tế Giao: Từ buổi bình minh của nhân loại, thiên nhiên hoang sơ rộng lớn và đầy bất trắc, với những hiện tượng lạ kỳ mưa gió, lũ lụt, sấm chớp, bão tố... đã gieo vào lòng người nhiều ấn tượng hãi hùng, lo sợ. Bắt nguồn từ đó, dần dần trong lịch sử đã hình thành tập tục thờ trời, thờ đất, thờ thần linh ma quỷ. Đó là nơi trú ẩn tạo cảm giác an toàn cho con người thuở sơ khai. Ở phương Đông, tập tục thờ cúng trời đất, thần linh gắn liền với việc thờ cúng tổ tiên, ông bà, phổ biến từ trong gia đình đến thôn xóm, làng xã. Khi chế độ quân chủ hình thành, một số triều đình đã xây dựng những “điển lệ” quy định việc thờ cúng trời đất, thần linh, với những nghi thức trang trọng, vừa biểu thị quyền uy tối thượng của nhà vua, vừa thể hiện khát vọng mong cầu quốc thái dân an, thiên hạ thái bình, phong hoà vũ thuận của muôn dân.

  • Sông Hương thuộc loại nhỏ của Việt Nam, nhưng với Thừa Thiên Huế có thể nói là “tất cả”. Hệ thống sông Hương cung cấp nước, tạo môi trường để phát triển gần như toàn bộ nền kinh tế - xã hội của Thừa Thiên Huế, đặc biệt sông Hương còn là biểu tượng của Huế, hai bên bờ mang nặng di sản văn hoá nhân loại. Nhưng đồng thời nó cũng đưa lại những trận lụt lớn vào mùa mưa, nhiễm mặn vào mùa hè...

  • Huế được Chính phủ xác định là một trong 5 thành phố cấp quốc gia, nằm trong khu vực kinh tế trọng điểm của miền Trung, cơ cấu kinh tế từng bước chuyển dịch theo hướng công nghiệp, dịch vụ du lịch. Quá trình phát triển đô thị, Huế đồng thời cũng đứng trước những thử thách mới, còn nhiều bất cập nhưng Huế vẫn giữ được nét kiến trúc riêng. Hình ảnh một thành phố mà kiến trúc và thiên nhiên hoà quyện, phải chăng đó là bản sắc Huế, khó trộn lẫn với bất kỳ một đô thị nào khác trong cả nước.

  • I. Toàn cầu hóa và lý luận văn học: I.1. “Toàn cầu hóa” làm cho “thế giới trở nên phẳng” (Thomas F.Fredman). Lý luận văn học là một lĩnh vực khoa học nhằm cắt nghĩa, lý giải, khái quát văn chương, đặt trong khung cảnh đó, nó cũng được “thế giới hóa”, tính toàn cầu hóa này tạo nên một mặt bằng chung, hình thành một ngôn ngữ chung. Từ đó mới có sự đối thoại, tiếp biến học hỏi lẫn nhau giữa các nền lý luận của các châu lục, quốc gia tạo nên một thể thống nhất trong đa dạng.

  • Đêm Nguyên tiêu 15 tháng giêng Quý Mùi 2003, thực hiện chủ trương của Hội Nhà văn Việt Nam, Hội Văn học Nghệ thuật Thừa Thiên Huế, Chi hội Nhà văn Việt Nam tại TTH đã tổ chức trên sông Hương một đêm thơ rất tuyệt vời. Ban tổ chức cho biết Hội Nhà văn Việt Nam đã được phép quyết định kể từ năm nay lấy ngày 15 tháng giêng âm lịch hằng năm làm Ngày Thơ Việt Nam. Quyết định ấy lay động tâm trí tôi vốn đang ưu tư với Huế Thành phố Festival, thay vì đọc thơ, trong đêm Nguyên tiêu ấy tôi đã phác họa sơ lược về một Festival thơ. Không ngờ ý kiến của tôi được Đêm thơ Nguyên tiêu hưởng ứng và các nhà thơ đã đề nghị tôi nên thực hiện một Hồ sơ cho Festival Thơ.

  • Trí thức trong bất cứ thời đại nào và ở đâu cũng là một nguồn lực quan trọng, là sức mạnh tinh thần nối kết truyền thống của dân tộc với thành tựu trí tuệ của thời đại. Khi nguồn lực trí tuệ của đội ngũ trí thức gắn kết được với sức mạnh cộng đồng thì xã hội sẽ có những chuyển biến tích cực. Ngược lại, nguồn lực trí tuệ không được phát huy thì năng lực phát triển của xã hội sẽ bị suy thoái. Thừa Thiên Huế có một thời là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hoá của Đàng Trong và trở thành kinh đô của cả nước. Vì thế Huế đã từng là nơi hội tụ nhiều thế hệ trí thức tinh hoa của đất nuớc. Lớp trí thức lớn lên tại Thừa Thiên Huế có điều kiện tiếp cận với những thiết chế và sinh hoạt văn hoá, học thuật có tầm cở quốc gia (Quốc Tử Giám, Quốc Sử Quán, Hàn Lâm Viện, Thái Y Viện. Khâm Thiên Giám.. ), năng lực trí tuệ của trí thức ở kinh kỳ có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển, cả trên lĩnh vực tư duy sáng tạo và quản lý, thực hành.

  • I. Sự hình thành và phát triển hệ thống đường phố ở Huế: Trước khi Huế được chọn để xây dựng kinh đô của nước Việt Nam thống nhất, đất Phú Xuân - Huế kể từ năm 1738 đã là nơi đóng đô thành văn vật của xứ Đàng Trong dưới thời chúa Nguyễn Phúc Khoát. Rồi Phú Xuân lại trở thành kinh đô Đại Việt của nhà Tây Sơn. Năm 1802, Nguyễn Phúc Ánh toàn thắng quân Tây Sơn; từ Thăng Long ông trở về Phú Xuân, chọn lại đất ấy, lấy ngày lành, lên ngôi vua, xưng hiệu là Gia Long. Tháng 5 năm 1803, nhà vua sai người ra ngoài bốn mặt thành Phú Xuân, xem xét thực địa, định giới hạn để xây dựng kinh thành mới. Trên cơ sở mặt bằng thành Phú Xuân cũ, lấy thêm phần đất của 8 làng cổ lân cận, mở rộng diện tích để xây dựng nên một kinh thành rộng lớn hơn trước. Cùng với việc xây dựng thành quách, cung điện, nha lại, sở ty... thì đường sá trong kinh thành cũng được thiết lập.

  • Thừa Thiên Huế là thủ phủ Đàng Trong thời các chúa Nguyễn, là kinh đô của cả nước dưới thời Tây Sơn và triều Nguyễn, nay là cố đô, một trong những trung tâm văn hoá và du lịch quan trọng của Việt Nam , trải qua quá trình đô thị hoá, vừa mang dấu ấn của một đô thị cổ phương Đông, vừa có đặc trưng của một đô thị mới. Để góp phần định hướng phát triển và tổ chức quản lý vùng đất nầy, một trong những việc cần làm là nên soát xét lại kết quả của quá trình đô thị hóa để lựa chọn những giải pháp quản lý phù hợp.

  • Trong quá khứ, mảnh đất Phú Xuân - Huế đã được chọn để đóng đô thành của các chúa Nguyễn ở Đàng Trong, rồi đến kinh đô Đại Việt của nhà Tây Sơn Nguyễn Huệ, sau nữa là kinh đô Việt Nam thống nhất dưới thời họ Nguyễn Phúc trị vì và cuối cùng trở thành cố đô từ sau Cách mạng Tháng 8.1945. Huế đã và đang là thành phố Festival - một thành phố lễ hội mang nhiều thành tố văn hóa đặc trưng của Việt Nam theo một quy chế đặc biệt. Để có cái nhìn khách quan về lịch sử, thiết nghĩ, chúng ta hãy điểm lại vài nét quá trình đi lên của thành phố Huế để trở thành đô thị loại I - đô thị đặc biệt hôm nay.

  • Hội nghị cán bộ Việt Minh mở rộng vào cuối tháng 4 đầu tháng 5/1945 diễn ra trên đầm Cầu Hai đề ra chủ trương lớn để phát triển phong trào cách mạng tỉnh Thừa Thiên Huế, chuẩn bị cùng cả nước khởi nghĩa cướp chính quyền khi có thời cơ. Sau hội nghị, phong trào cách mạng phát triển đều khắp trong toàn tỉnh. Đầu tháng 8, được tin quân đội Nhật bị quân đồng minh đánh bại ở nhiều nơi, nhất là ở Mãn Châu Trung Quốc, Thường vụ Việt Minh dự đoán ngày Nhật theo chân phát xít Đức bị đánh bại không còn xa, đã quyết định đẩy mạnh chuẩn bị khởi nghĩa. Giữa tháng 8 được tin Nhật Hoàng sẵn sàng đầu hàng, Thường vụ Việt Minh chỉ đạo các huyện khởi nghĩa. Sau khi tất cả các huyện phụ cận Huế khởi nghĩa thành công, ngày 20/8 Thường vụ Việt Minh triệu tập 6 huyện bàn quyết định chọn ngày 23.8.1945 là ngày khởi nghĩa giành chính quyền. Cũng ngay chiều ngày 20.8.1945 phái đoàn Trung ương có cụ Hồ Tùng Mậu, anh Nguyễn Duy Trinh và anh Tố Hữu đã đến Huế, vì Huế là thủ đô của chính quyền bù nhìn lúc bấy giờ. Khởi nghĩa ở Huế mang sắc thái đặc biệt có tính chất quốc gia. Ta giành lại chính quyền không phải từ tay một tỉnh trưởng mà là từ triều đình nhà Nguyễn - Bảo Đại ông vua cuối cùng, bên cạnh Bảo Đại lại có cả bộ máy chính quyền Trần Trọng Kim do Nhật lập ra. May mắn thay đoàn phái bộ Trung ương vào kịp thời nên vẫn giữ nguyên ngày khởi nghĩa (23.8.1945). Đêm 20.8.1945 cuộc họp của phái đoàn Trung ương và Thường vụ Tỉnh ủy thông qua kế hoạch khởi nghĩa của tỉnh và cử ra Ủy ban khởi nghĩa gồm có: anh Tố hữu là Chủ tịch đại diện cho Trung ương, tôi làm Phó Chủ tịch (PCT) đại diện cho Đảng bộ và Mặt trận Việt Minh địa phương cùng một số ủy viên: Lê Tự Đồng, Lê Khánh Khang, Hoàng Phương Thảo, Nguyễn Sơn...

  • Ba mươi năm trước, cùng với lực lượng cách mạng, những người làm Báo Cờ Giải Phóng của Đảng bộ Thừa Thiên Huế sôi nổi chuẩn bị số báo đặc biệt và có mặt trong đoàn quân tiến về giải phóng quê hương. Tháng 10/1974, chúng tôi được tham gia hội nghị Tỉnh ủy mở rộng bàn về đẩy mạnh nhiệm vụ đánh kế hoạch bình định, mở rộng vùng giải phóng nông thôn đồng bằng, phối hợp có hiệu quả với các chiến trường, góp phần giải phóng miền Nam, Thường vụ Tỉnh ủy giao nhiệm vụ cho Báo Cờ Giải Phóng ra số báo đặc biệt, nội dung phong phú, hình thức hấp dẫn để chuyển tải khí thế cách mạng miền Nam và trong tỉnh, đưa mệnh lệnh, lời kêu gọi của Mặt trận Dân tộc Giải phóng Thừa Thiên Huế và các chính sách của Mặt trận đối với vùng giải phóng.

  • Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước vĩ đại của dân tộc, lực lượng an ninh huyện Phú Vang đã nêu cao chủ nghĩa anh hùng cách mạng, với 95 thương binh, 135 liệt sĩ và không có một cán bộ, chiến sĩ nào đầu hàng phản bội, lực lượng an ninh huyện Phú Vang và 4 cán bộ an ninh huyện đã được Đảng, Nhà nước phong tặng danh hiệu cao quý “Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân”.

  • Trong mọi thời đại Hoàng đế và kẻ sĩ có mối quan hệ đặc biệt. Đó là mối quan hệ giữa người cầm quyền và người trí thức có nhân cách và tài năng. Khi Hoàng đế là minh quân thì thu phục được nhiều kẻ sĩ, khi Hoàng đế là hôn quân thì chỉ có bọn xu nịnh bất tài trục lợi bên mình còn kẻ sĩ bị gạt ra ngoài thậm chí có khi bị giết hại. Lịch sử bao triều đại đã chứng minh điều đó. Mối quan hệ giữa Hoàng đế Quang Trung Nguyễn Huệ và La Sơn Phu tử Nguyễn Thiếp của thế kỷ XVIII là cuộc hội ngộ lớn, mang đến nhiều lợi ích cho quốc gia và có ý nghĩa cho muôn đời. Nguyễn Huệ và Nguyễn Thiếp đều sống trong bối cảnh triều Lê suy tàn, chúa Trịnh lộng hành, chúa Nguyễn mới nổi dậy. Sau gần 300 năm hết nội chiến Lê Mạc đến Trịnh Nguyễn phân tranh đời sống nhân dân vô cùng khốn khổ. Trong bối cảnh đó Nguyễn Huệ cùng anh là Nguyễn Nhạc dựng cờ khởi nghĩa, Nguyễn Thiếp cáo quan về ở ẩn.

  • Năm 2008 là một năm khá kỳ lạ và đặc biệt của loài người. Nửa năm đầu, cả nhân loại thăng hoa với các chỉ số chi tiêu mà ngay cả các chiến lược gia kinh tế cũng phải bàng hoàng. Nửa năm cuối, quả bóng phát triển, ổn định bị lưỡi dao oan nghiệt của khủng hoảng đâm thủng nhanh đến nỗi hàng ngàn đại gia bị phá sản rồi, vẫn chưa lý giải nổi hai chữ “tại sao”. Bất ổn và đổi thay còn chóng mặt hơn cả sự thay đổi của những đám mây. Không phải ngẫu nhiên mà người Nhật lại chọn từ “thay đổi” (kanji) là từ của năm, vì B. Obama đã chiến thắng đối thủ bằng chính từ này (change)...

  • Bạn đọc thân mến! Hiệp hội Đo lường Thời gian quốc tế đã quyết định kéo dài thời gian của năm 2008 thêm 1 giây, và chúng ta đã chờ thêm 1 giây để đón chào năm mới. Sau thời khắc 23 giờ 59 phút 59 giây của ngày 31.12.2008, không phải là giây đầu tiên của năm mới mà phải sau thời khắc 23 giờ 59 phút 60 giây cùng ngày, năm 2009 - năm lẻ cuối cùng của thế kỷ 21, mới chính thức bắt đầu. Nhân loại đã có thêm một giây để nhìn lại năm cũ và bước sang năm mới. Và trong một giây thiêng liêng ấy, chắc chắn nhiều ý tưởng sáng tạo đã xuất hiện, nhiều tác phẩm nghệ thuật vừa hoàn tất, âm tiết cuối của câu thơ cuối một bài thơ vừa được nhà thơ viết xong và buông bút mãn nguyện. Cùng với ly rượu vang sóng sánh chúc mừng năm mới được nâng lên, cái đẹp, cái cao cả tiếp tục xuất hiện để phụng sự nhân loại và chắc chắn, những nụ hôn của tình yêu thương đã kéo dài thêm một giây đầy thiêng liêng để dư vị hạnh phúc còn vương mãi trên môi người.