Bảo vệ an ninh biên giới dưới thời Nguyễn

10:08 19/08/2011
NGÔ VĂN MINH Bảo vệ chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ là công việc quan trọng nhất của mỗi quốc gia. Triều Nguyễn sau khi đã mở mang, hợp nhất địa giới hành chính trong toàn lãnh thổ đã có những quy định về việc bảo vệ chủ quyền, tránh các thế lực bên ngoài dòm ngó, trong đó đặc biệt chú trọng đến việc bảo vệ chủ quyền đường biên giới và đường biển.

Vệ binh triều Nguyễn với những vũ khí thô sơ - Ảnh: internet

[if gte mso 9]> Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 <![endif][if gte mso 9]> <![endif][if !mso]> <![endif][if gte mso 10]> <![endif]

Trong thời kỳ đầu của triều Nguyễn, từ triều Gia Long (1082 - 1819) đến năm 1858 triều Tự Đức, đất nước ta là một nước độc lập, có chủ quyền, do đó việc phòng ngừa ý đồ “can thiệp” của các thế lực bên ngoài rất được đề cao.

Triều Nguyễn đã ban hành rất nhiều chỉ dụ cho các địa phương nhằm giải quyết những vấn đề xảy ra trong quá trình giao lưu, buôn bán hoặc quan hệ với những người nước ngoài, đặc biệt là các địa phương có đường biên giới giáp với nước khác. Việc lựa chọn quan lại để bổ nhiệm vào các vị trí quản lý ở các địa phương này cũng cân nhắc trên cơ sở những hiểu biết về tình hình. Năm Gia Long năm thứ 10 (1811), triều đình đã “lấy Quản đạo Kiên Giang là Trương Phúc Giáo làm Trấn thủ Hà Tiên, Ký lục Định Tường là Bùi Đức Miên làm Hiệp trấn. Vua thấy Hà Tiên là nơi trọng yếu ngoài biên, hai người đã biết rõ tình hình biên cương cho nên sai đi. Bọn Giáo đến trấn, chính sự chuộng rộng rãi giản dị, không làm phiền nhiễu, sửa sang trại quân, chiêu dân xiêu dạt, đặt trường học, khẩn ruộng hoang, vạch định phố chợ, ngăn khu cho người Hán [Việt], người Thanh, người Chân Lạp, người Chà Và, khiến tụ họp theo loài, làm cho Hà Tiên lại trở thành một nơi đô hội ở Nam thùy vậy”(1). Như vậy, bên cạnh việc tăng cường về quân sự tại các đồn ải, việc mở mang phát triển kinh tế nông nghiệp tại những nơi này cũng được triều Nguyễn chú trọng.

Nhiều sắc dụ của triều Nguyễn đã nói lên thực tế rằng, việc bảo vệ biên giới tại các trấn thuộc phía Nam và miền Trung được triều đại này đặc biệt chú trọng hơn so với miền Bắc. Do tính chất phức tạp phải đối diện với dân Cao Miên, nên số binh lính được tuyển mộ để canh giữ tại các đồn cũng cao hơn so với miền Bắc. Để lý giải cho việc này, phải thấy rõ chính sách đối ngoại của triều Nguyễn đối với các nước Trung Quốc, Ai Lao, Cao Miên... Đối với nhà Mãn Thanh (Trung Quốc) ở phía Bắc, nhà Nguyễn rất xem trọng mối quan hệ này và chịu sự tuyên phong cũng như đều đặn gửi cống nộp để cầu mong có mối quan hệ hòa hiếu, góp phần đảm bảo cho an ninh quốc gia. Đối với Ai Lao (tiếp giáp với miền Trung) và Cao Miên (tiếp giáp với miền Nam), quan hệ của nhà Nguyễn đối với các nước này là quan hệ của nước bảo hộ và nước được bảo hộ. Tuy nhiên, một bộ phận cầm quyền của Cao Miên không thừa nhận sự bảo hộ của triều Nguyễn, thường xuyên cấu kết với các thế lực bên ngoài tìm cách đối địch với triều Nguyễn. Do đó, vùng biên giới tiếp giáp với nước này được triều Nguyễn đặc biệt chú trọng.

Có thể nói, việc giữ yên vùng biên giới được xem là một yếu tố quan trọng trong việc bảo vệ lãnh thổ, do đó triều Nguyễn đã cho xây dựng một hệ thống các đồn ải ở các vùng biên giới nhằm kiểm tra tình hình người nước ngoài xâm nhập vào nước ta. Việc tuyển mộ binh lính canh giữ tại các đồn cũng lấy người địa phương hoặc người nước khác sinh sống tại Việt Nam, cho họ mang tên người Việt Nam để sung vào. Như Minh Mạng năm thứ 7 (1826) đã “lựa lấy dân số ở các sóc Cao Man, thuộc huyện Kiên Giang, cộng 518 người, dồn làm 10 đội ở chi Kiên Hùng, cho lệ vào đồn Uy Viễn, cải chính lại tên họ. Năm thứ 14, mộ dân phủ Châu Chiêm hơn 500 tên, dồn thành 10 đội, đặt làm cơ An Biên. Năm thứ 16, chọn lấy dân Chàm 823 tên, đặt làm 2 cơ: An man 1 và 2, mỗi cơ đều 10 đội. Lại lấy dân Bồ Đà, đã ngụ ở hạt Cao Man, là: 223 tên, đặt làm cơ An man thứ 3, cộng 5 đội...”(2). Chính sách tuyển chọn người địa phương để sung vào các đội nhằm mục đích lợi dụng sự am tường, hiểu biết về tình hình địa thế, khi không có việc thì luyện tập và khỏi phải gọi lính đi thú ở xa.


Cùng với việc tuyển mộ người nước khác sung vào trấn giữ tại các đồn ở biên giới, việc hướng họ theo thuần phong mỹ tục của Việt Nam cũng được nhà Nguyễn chú trọng. Thấy được điều này, vua Minh Mạng đã ra chỉ dụ cho các viên tướng, tham tán cần tăng cường giáo dục, từ các sinh hoạt cá nhân đến những ứng xử xã hội đều ứng theo phong tục của người Kinh: “Đối với quan phiên thì tùy tài mà sử dụng, tâu xin liệu cho quan chức, khiến cho họ mến nghĩa theo người Kinh, đều biết cảm kích, phấn khởi. Như thế đến khi cần, họ sẽ vui vẻ làm việc cho ta, đủ khiến cho sự phòng bị được nghiêm và nơi biên phòng được lành mạnh”(3).

Việc cấp phép cho nhân dân và quan lại ở vùng biên giới được sang nước khác để buôn bán hoặc làm việc đều phải có giấy thông hành của quan tổng trấn. Năm Gia Long 14 (1815) đã chuẩn định đuổi tất cả những người Kinh đang ở địa giới nước Cao Miên về quê quán. Nếu là quan lại và chức sắc thì phải có đủ giấy thông hành của quan ở trấn, nếu là người buôn bán thì phải có đủ giấy thông hành của quan tổng trấn ở thành. Nếu giấy hết hạn thì phải về nước ngay, ai trái lệnh thì quan phủ sở tại (nước Cao Miên) bắt nộp cho viên quan bảo hộ chuyển về thành để trị tội, người Miên nào dung túng để người Kinh ở lại khi giấy thông hành hết hạn thì quan phủ sở tại cũng phải liên đới trách nhiệm.

Việc tuần tra vùng biên giới đã được chính quyền trung ương triển khai đến các địa phương, trong đó quy định chặt chẽ từ việc nắm số lượng người nước ngoài sinh sống tại Việt Nam cho đến việc báo cáo số lượng quân địch... Do có đường biên giới tiếp giáp nhau nên một bộ phận dân cư của các nước này đến làm ăn sinh sống tại Việt Nam và lưu trú tại đây. Vì vậy, rất nhiều lần khi tuần tra biên giới, người Man đã dâng thư để đòi người. Năm Minh Mạng thứ 4 (1823), cai quản biền binh đồn Ai Lao khi tuần tiễu địa hạt Man, người Man trình thư về việc con của quốc vương phái người đem đoản đao và voi tiến vào địa hạt Việt Nam để đòi lấy số dân xiêu dạt nhưng không được. Nhà vua ban chỉ rằng từ nay về sau, nếu có những trường hợp như vậy thì phải tâu trình ngay và phải có những biện pháp kịp thời nhằm đề phòng, ngăn chặn không cho người nước khác vượt qua bờ cõi. Năm Minh Mạng thứ 10 (1829), Quản đạo Cam Lộ báo châu Tầm Bôn ở Quảng Trị có dân man Mục Đa Hản đến ngụ ở biên giới hơn 1.400 người, nhà vua ra lệnh cho đuổi về hết và từ nay không được qua lại nữa.

Việc tuần tra biên giới cũng được phải báo cáo chính xác và cụ thể. Năm Minh Mạng thứ 15 (1834), nhà vua ban dụ rằng: “Từ nay nếu có thám báo tình hình biên giới, cần phải đích xác, giả như quân địch có 1000 người, nếu không biết được thực số rõ ràng, thì lời báo dù không trúng cũng không xa lắm, hoặc nói là hơn 1000 người, hoặc nói là trên 800, 900 người, không được bịa ra báo quá nhiều, quá ít. Người có trách nhiệm nhận được báo cáo, cần phải cứ thực tâu lên”(4). Thời hạn báo cáo tình hình biên giới cũng được quy định cụ thể, việc báo cáo những vấn đề thường xảy ra ở biên giới thì một mặt tâu lên, một mặt sai người do thám rõ ràng, tiếp tục làm biểu dâng lên. Còn những việc quan trọng khẩn cấp thì cho dựa theo công việc trong tờ biểu, tùy việc mà xử lý để khỏi chậm trễ. Năm Minh Mạng thứ 16 (1835) chuẩn định rằng: “Tỉnh Hà Tiên khi có công việc cần kíp, phải tâu báo ngay. Còn khi tầm thường vô sự, thì mỗi tháng tâu một lần”(5).

Việc cử quân lính đi đánh dẹp ở miền biên giới dựa trên cơ sở tình hình thám báo. Nếu là những sự việc nhỏ như xảy ra cướp bóc ở vùng biên giới hoặc có người xâm phạm vào địa phận thì chỉ dùng lính sở tại, không dùng lính tỉnh để tránh cảm mạo khí độc núi rừng mà hiệu quả lại không cao.

Có thể nhận thấy chính sách của nhà Nguyễn đối với nhân dân vùng biên giới chủ yếu là làm cho họ quy phục mà theo, nhằm hạn chế việc chiến sự. Thiệu Trị năm thứ 3 (1943) có dụ rằng: “Cái chủ yếu làm cho đất Man quy phục là ở đánh dẹp và vỗ yên mà thôi... Vả, việc dùng binh quý ở biết mình, biết người, trước cơ liệu địch, tơ hào không sai, mới là tính toán vẹn toàn. Nếu chúng quân ít, tướng yếu, có thể thừa cơ đánh được thì nên đem toán quân mới đến của ta tiến đến Trấn Tây, đánh phá sào huyệt, làm cho dân Man biết rõ giặc Xiêm không thể nhờ cậy được, càng thêm sợ sệt ta. Nhân đó, chọn sai bọn tên Yểm Trà Long và các thổ mục đã quy thuận tùy cơ sắp đặt, chia đi chiêu dụ, vỗ về, chúng tất sợ oai, nhớ đức mà quy thuận. Kế ấy là hay đó...”(6).

Có thể nói, trong những năm đầu thế kỷ XIX, triều Nguyễn đã xây dựng một thiết chế quản lý đất nước thống nhất từ Bắc đến Nam. Để bảo vệ chủ quyền đất nước, triều Nguyễn đã cho xây dựng một hệ thống các đồn phòng thủ dọc biên giới, tạo nên một hệ thống phòng thủ về quân sự vững chắc. Lực lượng quân đội được củng cố, khi cần thiết thì bổ sung lính của triều đình và đây là lực lượng chính có trách nhiệm bảo vệ chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ. Bên cạnh việc tăng cường quân sự, việc phát triển kinh tế cũng được chú trọng, kèm theo đó, việc giáo hóa phong tục của người Việt đối với người dân ở các địa phương này cũng được đề cao. Hệ thống các chính sách tương đối toàn diện đó góp phần quan trọng trong việc bảo vệ toàn vẹn chủ quyền lãnh thổ của Việt Nam trong giai đoạn đầu của triều Nguyễn.

N.V.M

(270/08-11)




..................
(1) Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, bản dịch của Hội Sử học, Nxb Giáo dục, tập 1, trang 821.
(2) Nội các triều Nguyễn, Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, Nhà xuất bản Thuận Hóa, tập V, trang 239.
(3) Nội các triều Nguyễn, Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, Nhà xuất bản Thuận Hóa, tập V, trang 413.
(4) Nội các triều Nguyễn, Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, Nhà xuất bản Thuận Hóa, tập V, trang 413.
(5) Nội các triều Nguyễn, Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, Nhà xuất bản Thuận Hóa, tập V, trang 413.
(6) Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, Nxb Giáo dục, tập 6, trang 454.






Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • TRẦN CHINH VŨChỉ mấy ngày nữa là hết năm, vậy mà tôi vẫn chưa rời khỏi đất Tây Nguyên. Cái vùng đất đến lạ, tới được đã khó, đến lúc về lại cứ lần lữa, hết hẹn này qua hẹn khác.

  • HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG                                     Bút kýMỗi dân tộc đều có một quan niệm về sắc đẹp riêng, ví dụ tranh Tố Nữ là quan niệm về sắc đẹp của người Việt một thời nào. Tôi đi Tuyên Quang trong một tour du lịch mà tôi gọi là tour Lương Tâm, nghĩa là đến những nơi mà bất cứ ai là người Việt đều không thể không đến.

  • HỒ VĨNH(Thấp thoáng cố đô)

  • NGUYỄN VĂN DŨNG                        Bút kýMùa hè năm 1965, tôi nhận sứ vụ lệnh về dạy học ở trường Trần Quốc Tuấn - Quảng Ngãi. Biết tôi thích ngao du sơn thuỷ, đám đệ tử thân thiết khao thầy một chầu du ngoạn Lý Sơn.

  • NGUYỄN THỊ SỬU1. Thời gian là thước đo sự tồn tại của vạn vật trong vũ trụ bao la. Vạn vật luôn chuyển động và biến đổi không ngừng theo thời gian. Với người Ta Ôi, thời gian được tri nhận rõ nhất qua sự chuyển động và biến đổi của con trăng.

  • ĐẶNG VIỆT BÍCHGần đây các nhà khảo cổ học nước ta đã phát hiện ra nhiều di tích quan trọng của một nền văn hóa chịu ảnh hưởng sâu sắc của Ấn Độ giáo tại Cát Tiên, ở cả Bắc Cát Tiên lẫn Nam Cát Tiên trên vùng Đồng Nai Thượng.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ                     Ghi chépChúng tôi rời thị xã Điện Biên đã nhiều ngày và những hoạt động sôi nổi kỷ niệm 45 năm chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ đã qua, nhưng những ấn tượng trong thời gian ở Điện Biên thì mãi còn đậm nét trong tôi.

  • VĂN HÁCHĐã bốn thập kỷ qua, nhiều thế hệ học sinh, nhiều thế hệ người Việt ta và cũng nhiều người trên thế giới đã từng quen, từng biết câu thơ:Mường Thanh, Hồng Cúm Him LamHoa mơ lại trắng vườn cam lại vàng…

  • NGUYỄN HỮU NHÀNTương truyền đức Thánh Mẫu (mẹ Thánh Tản Viên) là người làng Yên Sơn. Chồng bà là người vùng biển. Họ dựng nhà, sống ở ngay dưới chân núi Thụ Tinh ngày nay gọi chệch là núi Thu Tinh. Một lần bà đi qua đồng Móng làng Tất Thắng ướm chân vào hòn đá to rồi về thụ thai ba năm mới sinh nở. Vì thế khi đang bụng mang dạ chửa bà đã bị dân làng đồn đại tiếng xấu về sự chửa hoang. Chồng bà nghi ngờ rồi bỏ vợ, về quê ở miền biển sinh sống.

  • DƯƠNG PHƯỚC THUChỉ hai ngày sau khi nước rút, tôi lại chạy về huyện Phú Vang. Nắng vàng sau lụt, vào tiết lập Đông oi nồng như đổ lửa. Con đường nhựa từ Huế về biển Thuận An bị bùn, đất, cát phủ dầy hàng gang tấc có đoạn lên cao cả thước, xe chạy người chạy vội vã cuốn bụi tung mù trời, hai bên lề đường ngấm nước lũ được đánh dấu bằng rác rều cỏ cây đeo bám vật vờ cao qúa đầu người. Mùi bùn non, rong rêu, xác chết gia súc gia cầm tấp vào, mùi ủng mục của lúa gạo ngấm nước bạc bốc lên tanh hôi khó chịu.

  • YÊN CHÂUQuảng Điền là một trong những huyện bị lũ lụt nặng nhất Thừa Thiên.Có thể kể ra đây mấy con số: 42 người chết, 13.000 tấn lúa bị thối, 3078 con trâu bò bị chết, 34 cây số đê bị vỡ.

  • NGUYỄN THỊ SỬU Cư trú trên dãy núi Trường Sơn kéo dài từ Thừa Thiên Huế đến Quảng Trị của lãnh thổ nước ta, dân số Ta-Ôi chỉ 34.960 người (theo Tổng điều tra dân số 1/4/1999) và ít được biết đến. Nhưng khi đi sâu vào đời sống văn hóa, chúng ta mới thấy sự kỳ thú, kỳ vĩ của dân tộc này. Với tư cách là một thành viên bản địa của cộng đồng tộc người Ta-Ôi và sau một chuyến khảo sát điền dã khắp 21 xã, thị trấn của huyện A Lưới, Thừa Thiên Huế, chúng tôi phát hiện ra một nét văn hóa đặc sắc có tính truyền thống của dân tộc Ta-Ôi. Đó là Trách nhiệm cộng đồng.

  • HOÀNG CÁTVới riêng tôi, thì những cái địa danh bình thường, thuộc nông thôn vùng sâu, vùng xa của tỉnh Thừa Thiên Huế như: Triều Dương, Cao Xá, Quảng Thái, Phong Chương, Phù Lai, An Lỗ, Đồng Lâm, Phong Sơn, xóm Khoai, xóm Mắc vv… từ lâu đã trở thành một phần máu thịt của tâm hồn mình, của ký ức mình; chưa bao giờ - và sẽ không bao giờ - tôi nguôi quên cho được.

  • NGÔ MINH             Ghi chép

  • NGUYỄN THANH TÚ                          Bút ký Bến phà Xuân Sơn nằm trên dòng sông Son thơ mộng ở đoạn thượng nguồn. Từ đây đi bằng thuyền máy khoảng nửa giờ đồng hồ ngược lên phía tây sẽ đến động Phong Nha. Anh Lê Chiêu Nguyên cán bộ hướng dẫn của Trung tâm du lịch văn hóa sinh thái Phong Nha - Kẻ Bàng đã nói như vậy khi đoàn chúng tôi chuẩn bị lên thuyền làm cuộc hành trình tới hang động mà UNESCO vừa công nhận là Di sản thiên nhiên thế giới.

  • NGUYỄN THẾTừ Huế, muốn đến khu nước khoáng nóng Thanh Tân, ta cứ theo Quốc lộ I ra phía Bắc, đi khoảng 20 km, tới cầu An Lỗ; qua cầu, rẽ trái theo tỉnh lộ 11, đi khoảng 12 km là đến. Còn nếu đi từ hướng Quảng Trị vào, đến km 26, rẽ phải vào cổng làng Đông Lâm thẳng theo con đường trải nhựa khoảng 7 km, gặp tỉnh lộ 11, rồi rẽ trái 1km.

  • NGUYỄN QUANG HÀ                       Ghi chépNói đến Vĩnh Linh, không ai không nhớ hai câu thơ đầy hãnh diện của Bác Hồ tặng cho mảnh đất này:                “Đánh cho giặc Mỹ tan tành                Năm châu khen ngợi Vĩnh Linh anh hùng”

  • …Chưa bao giờ các văn nghệ sĩ Huế lại tranh thủ “đi” như ở Trại viết này. Không chỉ “săn” cảnh đẹp, người đẹp, các anh còn chú trọng hơn những nét đẹp trong lao động sản xuất của người dân Bà Rịa-Vũng Tàu…

  • NGUYỄN XUÂN HOÀNG                                Bút ký...Bảy trăm năm trở về với Đại Việt, lịch sử đèo Hải Vân đã dày lên cùng với lịch sử nước Việt. Đó là những trang sách được viết bằng mồ hôi, máu và số phận của cả một dân tộc. Ngày Huyền Trân đi qua cửa Tư Dung (Tư Hiền ngày nay), nàng đã nhìn thấy gì nếu không phải là con ngựa trắng tung bờm lao ra biển đông, và đèo Hải Vân cao mịt mùng đã lặng lẽ đưa một Chiêu Quân vì nước non ngàn dặm ra đi. Cuộc vu qui nhiều nước mắt ấy theo tôi là trang sử đầu tiên của đèo Hải Vân. Để sau đó nơi hiểm trở này đã tiễn chân Cao Bá Quát, cái ngày ông đi giang hồ rèn chí, con chim hồng quì chân uống nước sông Trà mà vọng về phương Bắc lòng tha thiết nhớ quê...

  • NGUYỄN VĂN VINH                                 Bút kýAi về cầu ngói Thanh ToànCho em về với một đoàn cho vui