Bằng chính tôi, tôi đến với cuộc đời

08:38 14/02/2014

BỬU CHỈ

Đã từ lâu tôi vẫn nghĩ và tin rằng: quê hương của nghệ thuật là Tự Do, và nghệ thuật đích thực phải thoát thai từ những con người sáng tạo có đầy đủ quyền làm người, cùng tinh thần trách nhiệm đối với cộng đồng xã hội của họ; và lớn hơn nữa là đối với con người.

Họa sĩ Bửu Chỉ - Ảnh: internet

Nói đến sáng tạo là phải nói đến con người sáng tạo. Con người sáng tạo đích thực luôn luôn nuôi dưỡng ở bên trong mình một khát vọng không nguôi về cái Đẹp; vươn tới cái đẹp không ngừng. Cái đẹp hiểu theo nghĩa rộng của nó. Công việc của họ gắn liền với Iương tâm, và ý thức trách nhiệm của mình đối với cuộc đời. Nghĩa là phải tự thấy một sứ mệnh và chỉ với tự do họ mới hoàn thành được vai trò đó. Người nghệ sĩ sáng tạo trong tự do sẽ đạt đến trình độ ý thức trách nhiệm cao nhất. Không gì vô trách nhiệm hơn là "sáng tạo" bằng sự chỉ bảo, bằng sự suy nghĩ và rung cảm của kẻ khác. Dĩ nhiên, người nghệ sĩ sống trong một không gian và thời gian nào đó, sẽ phải chọn lựa cho mình một lý tưởng sống, một quan niệm đạo lý nào đó như một sự dấn thân. Nhưng tự do là điều cần yếu để cho mọi cống hiến trở nên có giá trị đích thực, chân thành, và chứa đựng đầy nỗi thiết tha phát xuất từ chính tấm lòng của mình. Vẫn biết rằng để có những tác phẩm hay đòi hỏi phải có tài năng nhưng tài năng không được giải phóng bằng tự do thì sẽ trở nên què quặt. Có thể có người sẽ cho rằng tự do sẽ mang lại những điều tốt đẹp nhưng đồng thời cũng có thể sẽ dẫn đến những hỗn loạn, những điều xấu. Tôi thì nghĩ khác, nếu ai lợi dụng tự do để gây những điều xấu, ngược lại với chân - thiện - mỹ, thì chính kẻ đó đã chống lại tự do và sẽ không còn tự do nữa khi chà đạp lên tự do của những người khác. Tôi quan niệm tự do là một trật - tự - linh - hoạt để mọi tài năng có thể phát triển đúng mức và đúng yêu cầu của thời đại. Không thể làm nghệ thuật mà lại khước từ tự do. Đó là một điều hiển nhiên.

Bây giờ, tôi thấy có không ít người làm nghệ thuật để bảo vệ uy thế và vị trí xã hội của mình, hơn là để bày tỏ tình yêu, niềm lo lắng, cách thức, và lòng ngưỡng mộ của mình đối với cuộc sống. Chủ nghĩa cơ hội sẽ tiêu diệt nghệ thuật và làm nghèo cuộc sống. Làm nghệ thuật thì không được cơ hội. Theo tôi nghĩ, nói cho cùng thì chính nghệ thuật góp phần tạo nên những nhịp thăng bng trong đời sống nội tâm của xã hội. Do đó cái hướng biểu hiện nghệ thuật không phải nhất thiết khi nào cũng cùng chiều với những biến chuyển của xã hội.

HS Bửu Chỉ tự họa


Khởi đi từ nhận thức rằng: nghệ thuật chỉ có trong tự do, nên làm nghệ thuật đó là công việc của cá th. Vì vậy, đòi hỏi sự trung thực và dũng cảm ở người sáng tạo. Điều quan trọng là người nghệ sĩ bằng chính mình đến với cuộc sống, tập thể, xã hội, chứ không phải tự làm cho mình biến dạng đi để tự đồng hóa với tập thể, với xã hội. Tự xóa mình là một hành động sống giả hình. Sống giả hình không phải là một thái độ nghệ thuật. Vả lại không thể có một nền nghệ thuật mà ở đấy mọi tác phẩm đều đồng dạng với nhau. Một xã hội nhân đạo, theo tôi là một xã hội mà ở đó mọi cá thể đều được quyền có một chân dung sống riêng của mình. Không thể nào có một xã hội người mà ở đấy mọi cá thể đều vô danh; hoặc chỉ được gọi bằng một tên. Thế giới nghệ thuật cũng vậy. Tôi vẫn tin rằng mỗi nghệ sĩ đích thực đều mang trong mình một quan niệm về trật tự, tôi gọi là Trật - Tự - Nội - Tâm. Chữ trật tự này phải được hiểu theo nghĩa rộng của nó là: Chân, Thiện, Mỹ ; và những giá trị khác... Bằng tác phẩm nghệ thuật, người nghệ sĩ xác lập trật - tự - nội - tâm của mình trước cuộc đời. Cuộc sống cũng sẽ có một trật tự riêng của nó. Qua sự đồng thanh tương ứng, qua sự đồng cảm, sự đối thoại, trật tự do nghệ thuật mang lại sẽ góp phần hoàn thiện trật tự của cuộc sống. Đó là động lực của văn hóa và văn minh.

Cũng trong dòng suy nghĩ như thế, tôi còn muốn nói một điều này: Làm nghệ thuật là người nghệ sĩ Sống. Sống là một quyền thiêng liêng của con người; điều này hiển nhiên. Do đó đừng bao giờ sợ rằng con người "sống sai"! Thật ra ai cũng mong ước về những cái tốt lành, những điều cao đẹp. Phải nói rằng: Hy vọng và thất vọng, buồn và vui, yêu và ghét, sùng kính và miệt thị, tin và không tin, bao dung và căm thù v.v... đều cần thiết và tốt cả khi tất cả điều ấy biểu hiện rằng con người còn đầy đủ tình cảm và còn khát sống. Do đó, nghệ thuật ngoài ý nghĩa là sự biểu hiện quan niệm về cái đẹp theo một góc cạnh, một bình diện nào đó; sự bày tỏ, lý giải, minh họa, tái tạo... không gian, thời gian sống của con người, nó trở thành một hệ thống đồ hình mà qua nó, và bên sau nó chúng ta tìm thấy chính hình ảnh con Người: Đời sau còn tiến lên được không là nhờ thấy, hiểu và kiểm tra lại được tất cả những gì đang phát triển trên bình diện nhân bản của xã hội chúng ta hôm nay. Nghệ thuật cho thấy tất cả điều ấy.

Nghệ thuật vì vậy, không thể là một thứ phó sản của các sinh hoạt kinh tế, chính trị, xã hội, khoa học kỹ thuật... mà tất cả những điều kiện ấy qua nghệ thuật trở thành V Đẹp. Nói cách khác, nghệ thuật có một đời sống riêng, một thế giới riêng, mục đích riêng và giá trị riêng - Mục đích tthân, giá trị tự thân - Người nghệ sĩ do đó đòi hỏi phải được sống trong thế giới của sự thật và được nuôi dưỡng bằng sự thật...

Nhìn lại thời sự văn nghệ của ta hiện nay, cửa vừa mới mở, cho dù mở muộn cũng đáng mừng. Và tôi mong rằng cửa sẽ chẳng bao giờ đóng lại, vì đóng thì chẳng lợi cho ai cả. Những vấn đề "Sau cởi trói" thì toàn là những vấn đề khó khăn hắc búa. Riêng tôi thấy có mấy vấn đề cần nói đến:

- Cần phải có một sự tự cải t tâm lý (tạm gọi như thế) của những người lãnh đạo văn nghệ và những người làm văn nghệ. Bởi trói buộc nhau đã lâu nên đã trở thành quán tính. Trói buộc nhau không phải bằng dây mà bằng quan niệm, nên đến khi "cởi trói" mới khó. Đối với những người bị trói nhưng có năng lực thì tôi tin có thể tự phục hồi dễ dàng. Những người tự trói, vì một thời họ đã tin rằng phải làm thế mới khỏi bị lạc loài ra khỏi thời đại, nghĩa là phải tự trói mới tồn tại. Chính những người này không bao giờ tin rằng cuộc đời có thể được thắp sáng, khởi đầu bằng những lương tri và lương tâm lẻ loi. Đối với những người này vấn đề sẽ trở thành khá nan giải. Còn đối với những người xưa nay quen tay trói, thì có thể do "quán tính" sẽ tiếp tục trói buộc nhau bằng chính quan niệm cởi trói.

- Xã hội loài người hiện tại là Xã hội có t chức. Xã hội ta cũng vậy. Do đó văn nghệ không thể phát triển tốt đẹp nếu không có một cơ chế tốt đẹp. Cơ chế này theo tôi phải được xây dựng trên một mẫu số chung về nghệ thuật. Đó là điểm gặp gỡ của sự nhìn nhận về chân lý nghệ thuật giữa những người lãnh đạo văn nghệ và người làm văn nghệ, chứ không phải là một sự áp đặt của một phía.

- Người ta hay đặt vấn đề làm thế nào để có đỉnh cao nghệ thuật. Theo tôi nghĩ thì hãy sống hết mình và làm việc hết mình. Trong một phút xuất hứng, xuất thần nào đó sẽ đạt đến đỉnh cao. Đừng bao giờ tự đặt trước mình những đỉnh cao trừu tượng để rồi leo trèo một cách mệt mỏi.

Nhưng trong bất kỳ tình huống nào, hoàn cảnh nào, muốn làm nghệ thuật thật sự thì phải bằng chính mình đến với cuộc đời.

B.C
(SH29/02-88)








 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGUYỄN HOÀN Trịnh Công Sơn là một hiện tượng độc đáo của âm nhạc và văn hoá Việt Nam được ái mộ không chỉ ở trong nước mà cả ở nước ngoài. Vì thế mà từ khi ông qua đời đến nay đã có trên chục đầu sách viết về ông, một số lượng hiếm thấy đối với các nhạc sĩ khác. Gần đây có cuốn “Trịnh Công Sơn vết chân dã tràng” của Ban Mai do Nhà xuất bản Lao Động, Trung tâm Văn hoá Ngôn ngữ Đông Tây xuất bản, Hà Nội, 2008. Với niềm ngưỡng mộ tài hoa và nhân cách nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, tôi đã hăm hở tìm đọc cuốn sách mới này nhưng tiếc thay, chưa kịp trọn nỗi mừng đã phải thất vọng về những trang viết đánh giá đầy sai lệch và thiếu sót, phiến diện về Trịnh Công Sơn và chiến tranh Việt Nam.

  • HOÀNG QUỐC HẢIThơ Lý - Trần có mạch nguồn từ Đinh - Lê, nếu không muốn nói trước nữa. Rất tiếc, nguồn tư liệu còn lại cho chúng ta khảo cứu quá nghèo nàn.Nghèo nàn, nhưng cũng đủ tạm cho ta soi chiếu lại tư tưởng của tổ tiên ta từ cả ngàn năm trước.

  • NGUYỄN VĂN THUẤN          (Nhóm nghiên cứu - lý luận phê bình trẻ)Thời gian gần đây, tại Việt , các tác phẩm của nhà văn Nhật Bản H.Murakami thường xuyên được dịch và xuất bản. Là một giọng nói hấp dẫn trên văn đàn thế giới, sáng tác của ông thu hút đông đảo công chúng và dành được nhiều sự quan tâm của các nhà nghiên cứu, phê bình. Một trong những tiểu thuyết làm nên danh tiếng của ông là Rừng Nauy.

  • PHAN TÂMQuê hương Phan Đăng Lưu, xã Hoa Thành, huyện Yên Thành, cách Kim Liên, Nam Đàn, quê hương Hồ Chí Minh khoảng 60 km.Hai nhân cách lớn của đất Nghệ An. Không hẹn mà gặp, xuất phát từ lương tri dân tộc, chủ nghĩa yêu nước Việt Nam, đến chủ nghĩa Mac - Lê nin, thành hai chiến sĩ cộng sản Việt Nam nổi tiếng.

  • THÁI DOÃN HIỂUNhà thơ Võ Văn Trực thuộc loại tài thì vừa phải nhưng tình thì rất lớn. Chính cái chân tình đó đã giúp anh bù đắp được vào năng lực còn hạn chế và mong manh của mình, vươn lên đạt được những thành tựu mới đóng góp cho kho tàng thi ca hiện đại của dân tộc 4 bài thơ xuất sắc: “Chị, Vĩnh viễn từ nay, Thu về một nửa và Nghĩa địa làng, người ta sẽ còn đọc mãi.

  • HÀ  ÁNH MINHBài thứ nhất, Một cuộc đời "Ngậm ngải tìm trầm" của Vương Trí Nhàn, đăng trên tạp chí Diễn đàn văn nghệ Việt Nam số Xuân Canh Thìn năm 2000, và bài thứ hai "Sư phụ Thanh Tịnh làm báo tết" của Ngô Vĩnh Bình, đăng trên báo Văn Nghệ, số Tết cũng năm Canh Thìn 2000. Bài đầu tiên viết dài, giọng văn trau chuốt điệu nghệ. Bài sau ngắn, mộc mạc.

  • LÊ THỊ HƯỜNGDẫu mượn hình thức của thể kí, dẫu tìm đến vần điệu của thơ, điểm nhất quán trong sáng tác của Hoàng Phủ Ngọc Tường là một cái tôi say đắm thiên nhiên. Đằng sau những tài hoa câu chữ là một cái tôi đa cảm - quá chừng là đa cảm - luôn dành cho cỏ dại những tình cảm lớn lao.  

  • BỬU NAM1. Nếu văn xuôi hư cấu (đặc biệt là tiểu thuyết) chiếm vị trí hàng đầu trong bức tranh thể loại của văn học Mỹ - La tinh nửa sau thế kỷ XX, thì thơ ca của lục địa này ở cùng thời gian cũng phát triển phong phú và rực rỡ không kém, nó tiếp tục đà cách tân và những tìm tòi đổi mới của những nhà thơ lớn ở những năm 30 - 40.

  • NGUYỄN ĐĂNG ĐIỆP1. Khi chạm vào cơn lốc và những điệu rock thơ mang tên Vi Thuỳ Linh, bất chợt tôi nhớ đến câu thơ dịu dàng và sâu thẳm của Paul Eluard: Trái đất màu xanh như một quả cam. Với P. Eluard, tình yêu là một thế giới tinh khiết, rạng rỡ và ngọt ngào: Đến mức tưởng em khỏa thân trước mặt. Còn Vi Thuỳ Linh, nếu ai hỏi thế giới màu gì, tôi đồ rằng nàng Vi sẽ trả lời tắp lự: Màu yêu.

  • HÀ VĂN LƯỠNG1. Cuộc chiến tranh giữ nước vĩ đại của nhân dân Xô Viết là một bản anh hùng ca bất tử của dân tộc Nga trong thế kỷ XX (1941-1945). Nó mãi mãi đi vào lịch sử vẻ vang và oanh liệt, không chỉ của đất nước Xô Viết mà còn cả với nhân loại tiến bộ yêu chuộng hòa bình trên thế giới, khẳng định bản chất tốt đẹp và chủ nghĩa anh hùng cách mạng của con ngưòi Xô Viết.

  • LƯƠNG THỰC THULTS: Lương Thực Thu, sinh năm 1903 tại Bắc Kinh, thời nhỏ học ở trường Thanh Hoa. Năm 1923 du học tại Mỹ. Năm 1926 về nước, lần lượt dạy học ở trường Đại học Đông Nam, Đại học Thanh Đảo, Đại học Bắc Kinh, và Đại học Sư phạm Bắc Kinh. Năm 1949 sang ở Đài Loan, chủ yếu giảng dạy ở Đại học Sư phạm Đài Loan. Năm 1966 nghỉ hưu, năm 1987 ốm chết tại Đài Bắc.

  • NGUYỄN XUÂN HOÀNG   (Đọc “Lý luận và văn học”, NXB Trẻ 2005 của GS.TS Lê Ngọc Trà)Ra mắt bạn đọc năm 1990, năm 1991, cuốn sách “Lý luận và văn học” của Giáo sư - Tiến sĩ Lê Ngọc Trà được trao giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam. 15 năm qua, những tưởng một số vấn đề về lý luận văn học mà cuốn sách đề cập đã không còn mới, đã “lạc hậu” so với tiến trình phát triển của văn học. Nhưng không, khi đọc lại cuốn sách được nhà xuất bản Trẻ tái bản lần thứ nhất năm 2005, những vấn đề mà GS.TS Lê Ngọc Trà đề cập vẫn còn nóng hổi và giữ nguyên tính thời sự của nó.

  • TRẦN ĐÌNH SỬLí luận văn học Việt Nam thế kỉ XX đã trải qua ba lần thay đổi hệ hình tư duy. Lần thứ nhất diễn ra vào những năm 1932 đến 1945 với việc hình thành quan niệm văn học biểu hiện con người, xã hội, lấy thẩm mĩ làm nguyên tắc, chống lại quan niệm văn học thời trung đại lấy tải đạo, giáo huấn, học thuật làm chính tông, mở ra một thời đại mới trong văn học dân tộc.

  • HỒ THẾ HÀĐà Linh - Cây bút truyện ngắn quen thuộc của bạn đọc cả nước, đặc biệt, của Đà Nẵng với các tác phẩm Giấc mơ của dòng sông (1998), Nàng Kim Chi sáu ngón (1992),Truyện của Người (1992) và gần đây nhất là Vĩnh biệt cây Vông Đồng (1997). Bên cạnh ấy, Đà Linh còn viết biên khảo văn hoá, địa chí và biên dịch.

  • NGÔ MINHBữa nay, người làm thơ đông không nhớ hết. Cả nước ta mỗi năm có tới gần ngàn tập thơ được xuất bản. Mỗi ngày trên hàng trăm tờ báo Trung ương, địa phương đều có in thơ. Nhưng, tôi đọc thấy đa phần thơ ta cứ na ná giống nhau, vần vè dễ dãi, rậm lời mà thiếu ý.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ     Ba công trình dày dặn nghiên cứu về Chủ tịch Hồ Chí Minh của cùng một tác giả, cùng được xuất bản trong năm 2005 kể cũng đáng gọi là "hiện tượng" trong ngành xuất bản. Ba công trình đó là "Hồ Chí Minh - danh nhân văn hóa" (NXB Văn hóa Thông tin, 315 trang), "Hồ Chí Minh - một nhân cách lớn" (NXB Văn hóa thông tin, 510 trang) và "Đạo Khổng trong văn Bác Hồ" (NXB Đại học quốc gia Hà Nội, 375 trang).

  • PHAN CÔNG TUYÊNLTS: Cuộc thi tìm hiểu “60 năm Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam” do Ban Tư tưởng - Văn hoá trung ương, website Đảng Cộng sản Việt Nam phối hợp với Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia phát động trong cả nước. Tại Thừa Thiên Huế, cuộc thi được phát động từ ngày 7/5/2005 đến ngày 10/7/2005; Ban tổ chức cuộc thi đã nhận được 160.840 bài dự thi của rất nhiều tầng lớp nhân dân, nhiều thành phần trong xã hội tham gia. Điều này chứng tỏ cuộc thi mang nhiều sức hấp dẫn. Sông Hương xin trích đăng báo cáo tổng kết cuộc thi của đồng chí Phan Công Tuyên, UVTV, Trưởng Ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ, Trưởng Ban tổ chức cuộc thi tại Thừa Thiên Huế.

  • TRẦN THỊ THANHTừ Hán Việt là một lớp từ khá quan trọng trong ngôn ngữ tiếng Việt của người Việt Nam. Với con số 60% - 70% từ Hán Việt có trong tiếng Việt, nó đã và đang đặt ra một nhiệm vụ cấp thiết làm thế nào để cho mọi người dân Việt Nam, đặc biệt là tầng lớp thanh, thiếu niên viết và nói đúng tiếng Việt trong đó có từ Hán Việt.

  • NGUYỄN ĐẮC XUÂN LTS: Bài dưới đây là tham luận của nhà văn Nguyễn Đắc Xuân đọc trong Hội nghị Lý luận phê bình văn học nghệ thuật trung ương, tháng 12-2008. Tác giả có những nhận định khá mới mẻ, những đề xuất khá hợp lý và khá mạnh dạn, tất nhiên bài viết sẽ không tránh phần chủ quan trong góc nhìn và quan điểm riêng của tác giả. Chúng tôi đăng tải gần như nguyên văn và rất mong nhận được những ý kiến phản hồi, trao đổi, thạm chí tranh luận của bạn đọc để rộng đường dư luận.S.H

  • MAI HOÀNGCẩm cù không nổi tiếng bằng một số truyện ngắn khác của Y Ban như Thư gửi mẹ Âu cơ, I am đàn bà, Đàn bà xấu thì không có quà… Không có những vấn đề hot như sex, nạo phá thai, ngoại tình… tóm lại là những sự vụ liên quan đến “chị em nhà Eva”.