“Để xây dựng một triết lý giáo dục mang tính thống nhất, rõ ràng đòi hỏi sự tham gia của nhiều người. Song, theo tôi, nền giáo dục cần lấy mục tiêu cuối cùng là phục vụ cuộc sống, tức phải đào tạo ra những con người hành động, sáng tạo, chứ không phải là những con người nói theo khuôn, làm theo mẫu như thực tế đã và đang diễn ra”, Nhà giáo Ưu tú Vũ Thế Khôi nêu ý kiến.
Dân tộc, dân chủ và khoa học
-Thưa ông, sinh thời, ông có nghe cha mình - Bộ trưởng Bộ Quốc gia Giáo dục (nay là Bộ Giáo dục và Đào tạo) đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa Vũ Đình Hòe nói đến triết lý giáo dục Việt Nam?
- Tôi chưa từng nghe cha tôi nói cụm từ “triết lý giáo dục”, song ông luôn theo đuổi “giáo dục vị nhân sinh”. Trên thực tế, khoảng một tuần sau khi giữ cương vị Bộ trưởng Bộ Quốc gia Giáo dục, cụ đã đề xuất với Chủ tịch Hồ Chí Minh về vấn đề cải cách giáo dục: Thay thế hẳn nền giáo dục vị học thuật (kiểu Pháp - đào tạo những bậc tài hoa) bằng nền giáo dục vị nhân sinh (kiểu Anh - Mỹ, đào tạo những nhà hành động, sớm phân chuyên ngành, phân từ rộng đến hẹp, sớm dạy nghề sát với yêu cầu xây dựng kinh tế và chú trọng dạy đạo làm người). Điều này đã được ghi lại trong cuốn sách “Hồi ký Vũ Đình Hòe”.
Sau đó, cụ được Chủ tịch Hồ Chí Minh ủy thác làm báo cáo của Chính phủ trước Quốc hội ngày 30.10.1946 về những việc đã làm được. Trong công tác giáo dục, cụ Hòe đã trình bày quan điểm: Nền giáo dục của nước Việt Nam mới xây dựng trên 3 nguyên tắc cơ bản, đó là dân tộc, dân chủ và khoa học. Tôi thiết nghĩ, quan điểm này thể hiện triết lý “giáo dục vị nhân sinh” mà cụ đề xuất và được Chủ tịch Hồ Chí Minh chấp thuận.
- Cụ thể, “giáo dục vị nhân sinh” theo quan điểm của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo đầu tiên Vũ Đình Hòe được thể hiện như thế nào?
- “Giáo dục vị nhân sinh” phải nhằm trang bị cho thanh niên những kiến thức và kỹ năng cần thiết để mưu sinh có lợi cho mình và có ích cho xã hội. Bởi cụ quan niệm “kiến thức chỉ là phương tiện của giáo dục, cứu cánh của giáo dục là hoạt động, là sống”, tức phải đào tạo ra những con người biết sống trong cộng đồng và biết làm việc phục vụ cho chính cuộc sống của bản thân và xã hội. Vì thế, giáo dục phải có tính hướng nghiệp. Cụ cùng các học giả khi ấy đã xây dựng hệ thống giáo dục tương ứng.
Cụ thể, ngay sau bậc Tiểu học đã có đầu ra. Bởi nước nhà mới giành độc lập, nhiều em vào học lớp Nhất (lớp 1) đã 12 - 13 tuổi. Do vậy, sau 4 năm học thì phải lo cho các em không có điều kiện học tiếp được học một năm “tuyển trạch”, tức hướng nghiệp, để trở thành công nhân, nông dân… có học thức. Với những em học tiếp lên cấp II, cấp III, cứ hết cấp lại có lối rẽ sang các khóa học tuyển trạch. Hệ thống giáo dục này đã được thể hiện qua sơ đồ của Hội đồng Cố vấn học chính được Chủ tịch Hồ Chí Minh ra sắc lệnh thành lập.
- Trong bài báo cuối cùng của cụ Vũ Đình Hòe đăng tháng 2.2011, trước khi cụ mất gần một tháng, cụ nhắc lại:“Mong nền giáo dục của ta thực sự là “giáo dục vị nhân sinh”, nghĩa là phục vụ các nhu cầu thiết thực của mỗi con người về vật chất cũng như tinh thần…”. Trên thực tế, theo ông, giáo dục của chúng ta có thực sự “vị nhân sinh”?
- Cho đến khoảng những năm 1948 - 1949 vẫn cứ hết một cấp học lại có lối rẽ với chương trình hướng nghiệp cho học sinh. Sau đó, chúng ta thực hiện cải cách giáo dục theo hướng giáo dục toàn diện, học một lèo đến hết lớp 7, sau đó là lớp 9 rồi lớp 12 như bây giờ. Song, nhìn vào việc rất nhiều sinh viên tốt nghiệp đại học, cao đẳng ra trường thất nghiệp, tôi không thấy giáo dục “vị nhân sinh” nữa.
Giáo dục phải phục vụ cuộc sống
- Theo ông, nền giáo dục Việt Nam đang theo triết lý nào?
- Với tôi, đây là câu hỏi khó trả lời. Bởi lẽ, đến bây giờ, dường như chúng ta vẫn lúng túng trong cải cách giáo dục mà nguyên nhân bởi chưa có một triết lý giáo dục được phát biểu rành rọt, thống nhất và phù hợp với mục tiêu xây dựng Nhà nước của dân, do dân và vì dân. Tất nhiên, điều này không có nghĩa chúng ta không có triết lý giáo dục, chỉ tiếc rằng nó không phải “giáo dục vị nhân sinh” của buổi đầu dựng nước!
- Trong bối cảnh hiện nay cũng như dự báo xu thế phát triển sắp tới, ông đề xuất triết lý giáo dục Việt Nam là gì?
- Để xây dựng một triết lý giáo dục mang tính thống nhất, rõ ràng đòi hỏi sự tham gia của nhiều người. Song, theo tôi, nền giáo dục cần lấy mục tiêu cuối cùng là phục vụ cuộc sống, tức phải đào tạo ra những con người hành động, sáng tạo, chứ không phải nói theo khuôn, như thực tế đã và đang diễn ra.
- Xin cảm ơn ông!
Trong tháng Năm này, cả nước tiến hành cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XIII và đại biểu hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2011 - 2016.
Dư luận đang lo lắng về việc rớt giá thê thảm của khối C. Khối C đã thật sự bị sĩ tử thẳng thừng từ chối, điều đó cho thấy rằng xã hội đang quay lưng… đằng sau đó có những hệ lụy gì?
Theo định hướng phát triển hiện nay, Huế sẽ là đô thị trung tâm, đô thị hạt nhân giữ vai trò động lực cho Thành phố trực thuộc Trung ương trong tương lai.
Thuở xưa, mỗi làng có một hương ước, nhiều làng có hương ước thành văn nhưng cũng có làng có hương ước bất thành văn.
Khi nhắc đến xứ sở Phù Tang, điều đầu tiên thế giới nghĩ đến là một Nhật Bản thần kỳ, giàu mạnh về kinh tế và điều thứ hai chắc chắn sẽ là sự đối mặt thường xuyên với thảm họa thiên tai.
“Có động đất ở Nhật Bản!” Tôi đang loay hoay xếp lại chồng sách vở ngổn ngang trên bàn thì nghe chồng tôi, giáo sư Michimi Munarushi người Nhật mới về Việt Nam 3 hôm trước báo.
Không có một vùng đất thứ hai nào trên dải đất hình chữ S của Việt Nam có vị trí hết sức đặc biệt như Huế. Nơi đây, từ 1306, bước chân Huyền Trân xuống thuyền mở đầu cho kỷ nguyên mở nước về Nam, Thuận Hóa thành nơi biên trấn.
I. Đặt vấn đề 1.1. Năm 1945, sau khi nhà Nguyễn cáo chung, một số giá trị văn hóa phi vật thể của Huế không còn giữ được môi trường diễn xướng nguyên thủy, nhưng những gì nó vốn có vẫn là minh chứng độc đáo về sự sáng tạo văn hóa của dân tộc Việt Nam.
Đưa Thừa Thiên Huế trở thành thành phố trực thuộc Trung ương trong vài năm tới đã trở thành quyết tâm chính trị của cán bộ đảng viên và nhân dân Thừa Thiên Huế.
Thăng Long - Hà Nội, thủ đô, trái tim của cả nước, qua ngàn năm phát triển, đã trở thành biểu tượng của nền văn hiến Việt Nam, là niềm tự hào của cả dân tộc.
Sau khi phục dựng thành công lễ tế Nam Giao và lễ tế Xã Tắc trong những năm qua, thiết nghĩ việc tái hiện lễ tế Âm Hồn 23.5 ở quy mô thành phố/ tỉnh là một việc làm có ý nghĩa trong việc bảo tồn bản sắc văn hóa và quảng bá du lịch của thành phố Huế chúng ta.
Thừa Thiên Huế - vùng đất chiến lược nối giữa hai miền Bắc - Nam từng là “phên dậu thứ tư về phương Nam” của Đại Việt, nơi “đô hội lớn của một phương”; từng là thủ phủ của xứ Đàng Trong, kinh đô của đất nước dưới thời Quang Trung - Nguyễn Huệ và triều Nguyễn (1802 - 1945); là miền đất địa linh nhân kiệt gắn liền với những tên tuổi lớn trong hành trình lịch sử của dân tộc, của ngàn năm Thăng Long...
Đưa Thừa Thiên Huế trở thành thành phố trực thuộc trung ương trong vài năm tới theo tinh thần kết luận số 48 của Bộ Chính trị đã mở ra một mốc mới mang tính lịch sử. Với kết luận này, đặt ra nhiệm vụ cho Huế phải trở thành trung tâm của khu vực miền Trung và là một trong những trung tâm lớn, đặc sắc của cả nước về văn hóa, du lịch, khoa học công nghệ, y tế chuyên sâu và giáo dục đào tạo đa ngành, đa lĩnh vực.
Ôn cố để tri tân, Festival Huế 2010 là lần tổ chức thứ VI. Qua 6 lần tổ chức, nhìn lại những ngày liên hoan văn hóa Việt Pháp (1992) do thành phố Huế phối hợp với Codev tổ chức, anh chị em văn nghệ sĩ Huế lúc bấy giờ phấn khích lắm vì đây là cơ hội tiếp xúc với thế giới dù chỉ mới có một nước Pháp. Họ thấy cần có trách nhiệm phải tham mưu để xây dựng chương trình cũng như chủ động tham gia hoạt động trong lĩnh vực của mình.
Như thường lệ, hàng năm Hội LHVHNT Thừa Thiên Huế tiến hành xét tặng thưởng cho các tác phẩm, công trình văn học nghệ thuật xuất sắc.
Chúng ta đã đi hết gần chặng đường 10 năm đầu của thiên niên kỷ mới. Thời đại chúng ta đang sống là thời đại mà sự phát triển song hành giữa cơ hội và thách thức đan xen.
(Thừa Thiên Huế trên tiến trình xây dựng thành phố trực thuộc Trung ương)
Những năm cuối cùng của thế kỷ XX, cùng với thành tựu của công cuộc đổi mới diễn ra sôi động trên đất nước Việt Nam, sức sống của vùng văn hoá Huế sau những năm dài tưởng chừng đã ngủ yên chợt bừng dậy và lấp lánh tỏa sáng.
Thơ không thể tách rời đời sống con người. Điều đó đã được thời gian minh chứng. Từ lời hát ru của mẹ, những giọng hò trên miền sông nước,… đã đánh thức tình yêu thương trong mỗi chúng ta.
Gần đây, khi Đảng ta chứng tỏ sự quan tâm của mình đối với đội ngũ trí thức thì trong dư luận cũng đã kịp thời có những phản ứng cộng hưởng. Điều mà chúng tôi lĩnh hội được gồm 3 câu hỏi tưởng chừng như "biết rồi khổ lắm nói mãi" nhưng lại không hẳn thế. Nó vẫn mới, vẫn nóng hổi vì sự tuyệt đối của qui luật vận động cũng như vì tính cập nhật, tính ứng dụng của đời sống. Chúng tôi xin được nêu ra và cùng bàn, cùng trao đổi cả 3 vấn đề.