Như thường lệ, vào số báo đầu năm mới, Sông Hương giới thiệu đến quý bạn đọc những tiếng nói của các cây bút trẻ. Đó là những tiếng nói đầy nhiệt huyết trong khu vườn sáng tạo. Những tiếng nói ấy chứa đựng trong mình biết bao khát vọng cất tiếng, khát vọng cách tân để đưa nghệ thuật làm tròn bổn phận của nó: Làm ra cái mới.
Với Hạo Nguyên thì chiêm bao chính là suối nguồn của mọi mơ mộng nghệ thuật từ khởi nguyên cho đến hiện tại… Cũng từ những khát vọng xác lập đường bay riêng, bạn đọc sẽ đến với những trăn trở của Tru Sa, một cây viết giàu nội lực hiện nay, viết như là để “ném mình khỏi lốt trần tục”. Trần Băng Khuê lại có những gam màu khác, đó là gam màu của sự trầm tĩnh, kín đáo và bản lĩnh của một cây bút lặng lẽ để “chập chững leo lên từng nấc bậc thang của sự sáng tạo”. Ở một đời sống khác, văn chương bén rễ từ tuổi hoa niên đầy ý vị và dần chiếm lĩnh tâm hồn Văn Thành Lê vì với cây bút này, thực tại của sự viết là đang đào bới, đục khoét chính mình. Nguyễn Hoàng Anh Thư, tác giả đang bước qua lằn văn trẻ lại quan niệm “nhà văn như một người nặn tò he, đa dạng và nhiều sắc màu” như một biểu tượng thôi thúc, khơi gợi. Với Lê Vũ Trường Giang thì người trẻ cần đắm mình trong khung trời tự do, bởi chỉ có tự do mới đem đến cho văn chương những chân trời bay cao rộng.
Văn chương đã mê hoặc những người trẻ như thế nào? Họ đến với văn chương vì lẽ gì? Văn chương là cuộc chơi, sự thể nghiệm hay sự phụng hiến; tất cả sẽ được dẫn giải qua những lăng kính khác nhau của các cây bút trẻ: Hạo Nguyên, Văn Thành Lê, Tru Sa, Nguyễn Hoàng Anh Thư, Trần Băng Khuê, Lê Vũ Trường Giang.
SÔNG HƯƠNG
Khai phóng chiêm bao
HẠO NGUYÊN
Thậm chí cho đến giờ tôi vẫn không quen với việc tự gọi mình là người viết văn hay một danh xưng gì đó tương tự như vậy. Từng là sinh viên Ngữ văn và từng đi dạy Văn, khái niệm “người viết” hay “nhà văn”, đối với tôi, luôn là một khái niệm được xây dựng trong những quan hệ, những tương quan khá phức tạp và rắc rối. Khi viết, tôi viết với chính mình, viết cho mình. Nó là một việc gì đó khá tự thân, cô độc, và đôi khi có thể gọi là tự kỷ cũng không sai.
Hồi mới viết những truyện đầu tiên, tôi không gửi đăng (đó không phải là biểu hiện của tự kỷ sao?). Nhờ một cơ duyên, tôi được nhà văn Hồ Anh Thái biết và anh bảo tôi gửi cho anh đọc. Thế là những truyện đầu tay ấy được đăng trên Đại biểu nhân dân (khi Đại biểu nhân dân còn chuyên mục truyện ngắn). Tập truyện ngắn “Lời nguyền bẫy đêm” xuất bản năm 2013 cũng từ sự gợi ý và giúp đỡ tích cực từ nhà văn Hồ Anh Thái. Nếu không có anh, có lẽ những truyện ngắn của tôi vẫn còn nằm trong máy tính hoặc trong… đầu tôi. Âu cũng là duyên vậy.
Viết, đối với riêng tôi, về cơ bản, giống như chiêm bao. Ở đó, ta có thể tạo ra một thế giới của riêng mình, không lệ thuộc vào những nguyên tắc cấu trúc của thế giới khác, của người khác. Vậy nên, những truyện ngắn tôi viết, giống như chiêm bao hơn là truyện ngắn thực thụ.
Vì, nói một cách thành thật và nghiêm túc, chỉ trong chiêm bao ta mới được là chính mình. Ở khía cạnh đó, truyện ngắn nói riêng, nghệ thuật nói chung, theo tôi, là khai phóng chiêm bao để định nghĩa chính mình.
Điểm yếu chết người và vì thế mà truyện tôi đọc khá chán là thiếu tính hiện thực và “trôi” chậm. Tôi biết điều đó nhưng không khắc phục được. Đành vậy, chiêm bao mà. Bù lại, nó có cái mà tôi cho là được đó là mình có quyền kiến trúc nên những ảo mộng vô cùng mà không cần phải lý giải vì sao lại thế. Những bất ngờ, những sự kiện phi lý, những mâu thuẫn logic giữa các truyện vì vậy sẽ không khiến tôi phải đi lý giải cho dễ hiểu và hợp khoa học.
2. Tôi đoán rằng mình thích thơ haiku và tiểu thuyết của Kawabata. Vẻ đẹp của văn học Nhật Bản phần nào đó hợp với “tạng” người tôi.
Xa xôi và chiêm bao.
Tôi cũng mê Thiền học. Và đặc biệt, triết lý “vô thường” của Phật giáo được chuyển hóa thành cái hư ảo, cái bi trong nghệ thuật Nhật Bản là điều mà tôi khá bị ám ảnh.
Gần đây tôi cũng thích đọc Murakami. Nếu có thể nói điều gì đó về tác phẩm của ông, tôi sẽ nói là “nhà trưng bày lộng lẫy của những chiêm bao”.
Tôi được biết có khá nhiều nhà văn Việt Nam đương đại có nhiều tác phẩm được dịch ra các ngôn ngữ khác. Nhưng tạo nên một hiện tượng văn hóa như Murakami thì chắc khó. Thậm chí loạt tác phẩm thiên về giải trí như Harry Potter cũng tạo nên cơn sốt toàn cầu.
Đôi khi tôi nghĩ văn học đương đại thế giới giống như trường phù thủy Hogwart trong bộ Harry Potter. Rất nhiều phép lạ và sự diệu kỳ. Và chúng ta đứng ngoài giấc mơ kỳ lạ đó.
3. Nếu phải chọn một tác phẩm nào đó để nói rằng tôi yêu thích nhất, thì quả thật là rất khó.
Thứ nhất là vì tôi thích khá nhiều tác phẩm. Riêng bộ “Tam quốc diễn nghĩa” tôi đọc đi đọc lại hàng chục lần. Như vậy là thích lắm, vì không có tác phẩm nào khiến tôi đọc nhiều lần như vậy. Hồi sinh viên, tôi đã thức trắng một đêm để đọc bộ “Giã từ vũ khí”, đọc xong thì trời tảng sáng, nằm khóc một mình. Đó là một câu chuyện thực sự làm lay động trái tim. Những tác phẩm của Kawabata: Ngàn cánh hạc, Cố đô, Xứ tuyết… tôi vẫn giữ đến tận giờ, dù nhiều cuốn sách khác đã ra đi. Rồi những tiểu thuyết - bài thơ (tôi tự gọi như vậy) như “Lụa” của Alessandro Baricco hay “Tuyết” của Maxence Fermine, đều mang dáng dấp những bài haiku tuyệt đẹp…
Thứ hai, như mọi người thấy ở trên, tất cả là văn học nước ngoài. Nếu xét trên một quan điểm nghiêm khắc, nhiều người sẽ bảo tôi “vọng ngoại”. Nhưng biết làm thế nào? Sở thích không thể phân biệt quốc tịch.
Vậy đã đến lúc phải chọn thì tôi sẽ chọn tác phẩm nào? Thật kỳ lạ là đôi khi bất giác trí nhớ gọi tên một tác phẩm gây nhung nhớ thì không phải những tác phẩm trên, mà là hai truyện ngắn, một của Kawabata - “Cánh tay” và một của Tanizaki - “Cầu mộng”.
Phải, hai truyện ngắn diệu kỳ đó đã biến thành một thứ trầm tích đẹp đẽ trong tôi, để đôi khi nhớ về, cảm giác bảng lảng như mình vẫn đang lạc trong một cõi sương nào đó mà không muốn, không thể tìm lối ra. Đến giờ, thật khó để khẳng định hai tác phẩm đó là truyện ngắn hay thơ.
Vậy đó, đôi khi sự phân định thể loại là hết sức vô nghĩa và không cần thiết.
4. Quay trở lại với khái niệm “người viết” hay “nhà văn”. Hơn ai hết, tôi tự thấy mình hoàn toàn không nằm trong “phạm vi điều chỉnh” của những khái niệm ấy. Những “người viết” hay “nhà văn” đúng nghĩa luôn có quá trình lao động hết sức nghiêm túc, cần mần, kiên trì, chỉn chu. Trong một truyện của tôi (tạm gọi là truyện), có đoạn đối thoại thế này:
- Tao vẽ cũng giống như đi vệ sinh. Nghĩa là chỉ khi nào có nhu cầu. Mà mày đừng có nhiễm mấy cái lý luận vớ vẩn ở trên trường. Hại cả óc.
Im lặng một lát như để tôi có thời gian suy nghĩ, Y nói tiếp:
- Tranh của tao là phế thải của tâm hồn tao. Khi nào tâm trí tao sạch sẽ thì tao chơi. Khi nào trí óc lại ních đủ thứ rồi thì tao vẽ để đào thải ra thành một thứ vật chất là tranh. Mày đừng thần thánh hóa chuyện vẽ vời hay viết lách, như thế là báng bổ thần linh đấy.
(Quả tim của Modigliani)
Không thể phủ nhận trong đoạn hội thoại này tôi đã gián tiếp nói về quan điểm khi viết của mình. Chỉ viết khi thấy cần phải đào thải cái gì đó, một nỗi đau cá nhân, một suy tư riêng lẻ… Từ một lúc nào đó, tôi nghĩ rằng viết, trước hết là để giải bày.
Và cũng từ một lúc nào đó, tôi nhận thấy sự bất lực của ngôn từ nói riêng hay nghệ thuật nói chung đối với những vấn đề sinh tồn đang hiện hữu quanh đây.
Đó thật sự là một thức nhận hết sức tiêu cực. Nhưng có những điều khiến ta mất tin rằng cái đẹp có thể cứu rỗi thế giới như lời của Dostoievski.
5. Đi vào con đường này, sẽ có người chọn cách kể một câu chuyện vĩ đại có thật, sẽ có người chọn cách kể một nỗi đau phổ quát có thật, sẽ có người chọn cách kể một bi kịch hiện sinh điển hình có thật.
Và cũng sẽ có người chọn cách kể một vài chiêm bao nhỏ bé của mình, và chưa hẳn chiêm bao ấy có thật.
Nếu bước vào con đường này với tham vọng sau này có ai nhắc tên thì thật sự là khó. Và có khi đó là chiêm bao quá lớn.
Mà không phải chiêm bao nào cũng có thể khai phóng.
H.N
(TCSH335/01-2017)
NGHIÊM DIỄM
Nguyễn Du (1766 - 1820) là nhà văn nổi tiếng nhất của Việt Nam, ông không chỉ sáng tác truyện thơ lục bát chữ Nôm “Kim Vân Kiều Truyện” nổi tiếng trong và ngoài nước, mà còn sáng tác ra một số lượng lớn thơ chữ Hán.
VŨ NHƯ QUỲNH
Khẳng định vai trò đặc biệt của công tác tuyên giáo, Đảng ta đã tập trung xây dựng và phát triển lực lượng tuyên giáo với đầy đủ các lực lượng tinh nhuệ, đủ sức gánh vác nhiệm vụ của Đảng và nhân dân giao phó.
THÁI PHAN VÀNG ANH
Cùng với sự dịch chuyển liên tục biên giới/ lằn ranh phân định giữa các quốc gia, dân tộc, những vấn đề toàn cầu hóa cũng ngày càng ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc sống của nhân loại, đến từng số phận cá nhân.
HOÀNG ĐĂNG KHOA
Cánh đồng bất tận của Nguyễn Ngọc Tư là truyện ngắn, viết về cuộc sống thì hiện tại tiếp diễn của cư dân vùng sông nước Cà Mau cực Tây Nam Bộ, còn Chúa đất của Đỗ Bích Thúy là tiểu thuyết, sản phẩm hư cấu trên nền cảm hứng về truyền thuyết xưa gắn liền với nhân vật chúa đất Sùng Chúa Đà và sự tích cây cột đá hành quyết ghê rợn nơi cao nguyên Hà Giang cực Đông Bắc Bộ.
TRIỀU NGUYÊN
1. Hiện nay, “vè” là tên của một thể loại, thể loại vè, thuộc văn học dân gian Việt Nam.
MAURICE BLANCHOT
PHAN TRẦN THANH TÚ
Công cuộc Đổi mới đã diễn ra hơn 30 năm trong lòng xã hội Việt Nam với dấu mốc trọng đại là Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng.
HOÀNG THỤY ANH
Dấu ấn, cá tính của nhà văn thể hiện rất rõ trong cách xử lý cốt truyện, khai thác tâm lý nhân vật, sử dụng ngôn ngữ, xây dựng hình tượng,… Và tất cả những yếu tố này còn ít nhiều bị ảnh hưởng, khu biệt bởi đặc trưng văn hóa nơi nhà văn sinh ra.
JONATHAN CULLER
LÊ TỪ HIỂN
PHẠM PHÚ PHONG
Đọc Nguyễn Văn Xuân toàn tập [1] mới có thể nhận diện một cách đầy đủ chân dung ông, không chỉ với tư cách là nhà văn, mà còn là học giả, một nhà Quảng học.
TRẦN THỊ NHƯ NGỌC
Viên Chiếu thiền sư không những là bậc chân tu, còn có tài văn chương xuất chúng. Tất cả những tác phẩm ngài trước tác và để lại cho đến nay chỉ còn Tham đồ hiển quyết, đó là kết tinh từ những hương thơm cỏ lạ, khoe sắc giữa vườn văn học thiền tông Việt Nam.
HOÀNG NHẬT
Chảy đi sông ơi
Băn khoăn làm gì?
Rồi sông đãi hết
Anh hùng còn chi?
NGUYỄN HOÀN
Nhận định về Trịnh Công Sơn, lâu nay có câu so sánh gần như mặc định: “Trịnh Công Sơn là Bob Dylan của Việt Nam”.
HÀ VĂN LƯỠNG
Haruki Murakami sinh ra ở Nhật Bản, nhưng lại sống nhiều năm ở nước ngoài, chịu ảnh hưởng khá đậm nét văn hóa phương Tây, trong sáng tác của ông, cùng với những biểu hiện của chủ nghĩa hiện thực huyền ảo, chủ nghĩa hậu hiện đại, những yếu tố vô thức, tâm linh cũng được nhà văn thể hiện trên các bình diện khác nhau.
Li-Hsiang Lisa Rosenlee, sinh năm 1968, hiện là Giáo sư Triết học ở Đại học Hawaii - Hoa Kỳ, lĩnh vực nghiên cứu chính của bà là Triết học nữ quyền, Đạo đức và triết học Trung Quốc thời cổ đại.
PHAN TUẤN ANH
Uông Triều là nhà văn tạo được dấu ấn trên văn đàn Việt Nam trong khoảng gần mười năm qua. Ngòi bút của anh xông xáo, mạnh mẽ thể nghiệm mình trên nhiều thể loại, nhiều trường phái và hệ hình nghệ thuật khác nhau.
LÊ QUANG TRANG