BÀN TRÒN VĂN CHƯƠNG TRẺ ĐẦU XUÂN

09:05 22/01/2017

Như thường lệ, vào số báo đầu năm mới, Sông Hương giới thiệu đến quý bạn đọc những tiếng nói của các cây bút trẻ. Đó là những tiếng nói đầy nhiệt huyết trong khu vườn sáng tạo. Những tiếng nói ấy chứa đựng trong mình biết bao khát vọng cất tiếng, khát vọng cách tân để đưa nghệ thuật làm tròn bổn phận của nó: Làm ra cái mới.

Với Hạo Nguyên thì chiêm bao chính là suối nguồn của mọi mơ mộng nghệ thuật từ khởi nguyên cho đến hiện tại… Cũng từ những khát vọng xác lập đường bay riêng, bạn đọc sẽ đến với những trăn trở của Tru Sa, một cây viết giàu nội lực hiện nay, viết như là để “ném mình khỏi lốt trần tục”. Trần Băng Khuê lại có những gam màu khác, đó là gam màu của sự trầm tĩnh, kín đáo và bản lĩnh của một cây bút lặng lẽ để “chập chững leo lên từng nấc bậc thang của sự sáng tạo”. Ở một đời sống khác, văn chương bén rễ từ tuổi hoa niên đầy ý vị và dần chiếm lĩnh tâm hồn Văn Thành Lê vì với cây bút này, thực tại của sự viết là đang đào bới, đục khoét chính mình. Nguyễn Hoàng Anh Thư, tác giả đang bước qua lằn văn trẻ lại quan niệm “nhà văn như một người nặn tò he, đa dạng và nhiều sắc màu” như một biểu tượng thôi thúc, khơi gợi. Với Lê Vũ Trường Giang thì người trẻ cần đắm mình trong khung trời tự do, bởi chỉ có tự do mới đem đến cho văn chương những chân trời bay cao rộng.
Văn chương đã mê hoặc những người trẻ như thế nào? Họ đến với văn chương
vì lẽ gì? Văn chương là cuộc chơi, sự thể nghiệm hay sự phụng hiến; tất cả sẽ được dẫn giải qua những lăng kính khác nhau của các cây bút trẻ: Hạo Nguyên, Văn Thành Lê, Tru Sa, Nguyễn Hoàng Anh Thư, Trần Băng Khuê, Lê Vũ Trường Giang.
SÔNG HƯƠNG  



Khai phóng chiêm bao  

HẠO NGUYÊN  

Thậm chí cho đến giờ tôi vẫn không quen với việc tự gọi mình là người viết văn hay một danh xưng gì đó tương tự như vậy. Từng là sinh viên Ngữ văn và từng đi dạy Văn, khái niệm “người viết” hay “nhà văn”, đối với tôi, luôn là một khái niệm được xây dựng trong những quan hệ, những tương quan khá phức tạp và rắc rối. Khi viết, tôi viết với chính mình, viết cho mình. Nó là một việc gì đó khá tự thân, cô độc, và đôi khi có thể gọi là tự kỷ cũng không sai.

Hồi mới viết những truyện đầu tiên, tôi không gửi đăng (đó không phải là biểu hiện của tự kỷ sao?). Nhờ một cơ duyên, tôi được nhà văn Hồ Anh Thái biết và anh bảo tôi gửi cho anh đọc. Thế là những truyện đầu tay ấy được đăng trên Đại biểu nhân dân (khi Đại biểu nhân dân còn chuyên mục truyện ngắn). Tập truyện ngắn “Lời nguyền bẫy đêm” xuất bản năm 2013 cũng từ sự gợi ý và giúp đỡ tích cực từ nhà văn Hồ Anh Thái. Nếu không có anh, có lẽ những truyện ngắn của tôi vẫn còn nằm trong máy tính hoặc trong… đầu tôi. Âu cũng là duyên vậy.

Viết, đối với riêng tôi, về cơ bản, giống như chiêm bao. Ở đó, ta có thể tạo ra một thế giới của riêng mình, không lệ thuộc vào những nguyên tắc cấu trúc của thế giới khác, của người khác. Vậy nên, những truyện ngắn tôi viết, giống như chiêm bao hơn là truyện ngắn thực thụ.

Vì, nói một cách thành thật và nghiêm túc, chỉ trong chiêm bao ta mới được là chính mình. Ở khía cạnh đó, truyện ngắn nói riêng, nghệ thuật nói chung, theo tôi, là khai phóng chiêm bao để định nghĩa chính mình.

Điểm yếu chết người và vì thế mà truyện tôi đọc khá chán là thiếu tính hiện thực và “trôi” chậm. Tôi biết điều đó nhưng không khắc phục được. Đành vậy, chiêm bao mà. Bù lại, nó có cái mà tôi cho là được đó là mình có quyền kiến trúc nên những ảo mộng vô cùng mà không cần phải lý giải vì sao lại thế. Những bất ngờ, những sự kiện phi lý, những mâu thuẫn logic giữa các truyện vì vậy sẽ không khiến tôi phải đi lý giải cho dễ hiểu và hợp khoa học.

2. Tôi đoán rằng mình thích thơ haiku và tiểu thuyết của Kawabata. Vẻ đẹp của văn học Nhật Bản phần nào đó hợp với “tạng” người tôi.

Xa xôi và chiêm bao.

Tôi cũng mê Thiền học. Và đặc biệt, triết lý “vô thường” của Phật giáo được chuyển hóa thành cái hư ảo, cái bi trong nghệ thuật Nhật Bản là điều mà tôi khá bị ám ảnh.

Gần đây tôi cũng thích đọc Murakami. Nếu có thể nói điều gì đó về tác phẩm của ông, tôi sẽ nói là “nhà trưng bày lộng lẫy của những chiêm bao”.

Tôi được biết có khá nhiều nhà văn Việt Nam đương đại có nhiều tác phẩm được dịch ra các ngôn ngữ khác. Nhưng tạo nên một hiện tượng văn hóa như Murakami thì chắc khó. Thậm chí loạt tác phẩm thiên về giải trí như Harry Potter cũng tạo nên cơn sốt toàn cầu.

Đôi khi tôi nghĩ văn học đương đại thế giới giống như trường phù thủy Hogwart trong bộ Harry Potter. Rất nhiều phép lạ và sự diệu kỳ. Và chúng ta đứng ngoài giấc mơ kỳ lạ đó.

3. Nếu phải chọn một tác phẩm nào đó để nói rằng tôi yêu thích nhất, thì quả thật là rất khó.

Thứ nhất là vì tôi thích khá nhiều tác phẩm. Riêng bộ “Tam quốc diễn nghĩa” tôi đọc đi đọc lại hàng chục lần. Như vậy là thích lắm, vì không có tác phẩm nào khiến tôi đọc nhiều lần như vậy. Hồi sinh viên, tôi đã thức trắng một đêm để đọc bộ “Giã từ vũ khí”, đọc xong thì trời tảng sáng, nằm khóc một mình. Đó là một câu chuyện thực sự làm lay động trái tim. Những tác phẩm của Kawabata: Ngàn cánh hạc, Cố đô, Xứ tuyết… tôi vẫn giữ đến tận giờ, dù nhiều cuốn sách khác đã ra đi. Rồi những tiểu thuyết - bài thơ (tôi tự gọi như vậy) như “Lụa” của Alessandro Baricco hay “Tuyết” của Maxence Fermine, đều mang dáng dấp những bài haiku tuyệt đẹp…

Thứ hai, như mọi người thấy ở trên, tất cả là văn học nước ngoài. Nếu xét trên một quan điểm nghiêm khắc, nhiều người sẽ bảo tôi “vọng ngoại”. Nhưng biết làm thế nào? Sở thích không thể phân biệt quốc tịch.

Vậy đã đến lúc phải chọn thì tôi sẽ chọn tác phẩm nào? Thật kỳ lạ là đôi khi bất giác trí nhớ gọi tên một tác phẩm gây nhung nhớ thì không phải những tác phẩm trên, mà là hai truyện ngắn, một của Kawabata - “Cánh tay” và một của Tanizaki - “Cầu mộng”.

Phải, hai truyện ngắn diệu kỳ đó đã biến thành một thứ trầm tích đẹp đẽ trong tôi, để đôi khi nhớ về, cảm giác bảng lảng như mình vẫn đang lạc trong một cõi sương nào đó mà không muốn, không thể tìm lối ra. Đến giờ, thật khó để khẳng định hai tác phẩm đó là truyện ngắn hay thơ.

Vậy đó, đôi khi sự phân định thể loại là hết sức vô nghĩa và không cần thiết.

4. Quay trở lại với khái niệm “người viết” hay “nhà văn”. Hơn ai hết, tôi tự thấy mình hoàn toàn không nằm trong “phạm vi điều chỉnh” của những khái niệm ấy. Những “người viết” hay “nhà văn” đúng nghĩa luôn có quá trình lao động hết sức nghiêm túc, cần mần, kiên trì, chỉn chu. Trong một truyện của tôi (tạm gọi là truyện), có đoạn đối thoại thế này:

- Tao vẽ cũng giống như đi vệ sinh. Nghĩa là chỉ khi nào có nhu cầu. Mà mày đừng có nhiễm mấy cái lý luận vớ vẩn ở trên trường. Hại cả óc.

Im lặng một lát như để tôi có thời gian suy nghĩ, Y nói tiếp:

- Tranh của tao là phế thải của tâm hồn tao. Khi nào tâm trí tao sạch sẽ thì tao chơi. Khi nào trí óc lại ních đủ thứ rồi thì tao vẽ để đào thải ra thành một thứ vật chất là tranh. Mày đừng thần thánh hóa chuyện vẽ vời hay viết lách, như thế là báng bổ thần linh đấy.

(Quả tim của Modigliani)


Không thể phủ nhận trong đoạn hội thoại này tôi đã gián tiếp nói về quan điểm khi viết của mình. Chỉ viết khi thấy cần phải đào thải cái gì đó, một nỗi đau cá nhân, một suy tư riêng lẻ… Từ một lúc nào đó, tôi nghĩ rằng viết, trước hết là để giải bày.

Và cũng từ một lúc nào đó, tôi nhận thấy sự bất lực của ngôn từ nói riêng hay nghệ thuật nói chung đối với những vấn đề sinh tồn đang hiện hữu quanh đây.

Đó thật sự là một thức nhận hết sức tiêu cực. Nhưng có những điều khiến ta mất tin rằng cái đẹp có thể cứu rỗi thế giới như lời của Dostoievski.

5. Đi vào con đường này, sẽ có người chọn cách kể một câu chuyện vĩ đại có thật, sẽ có người chọn cách kể một nỗi đau phổ quát có thật, sẽ có người chọn cách kể một bi kịch hiện sinh điển hình có thật.

Và cũng sẽ có người chọn cách kể một vài chiêm bao nhỏ bé của mình, và chưa hẳn chiêm bao ấy có thật.

Nếu bước vào con đường này với tham vọng sau này có ai nhắc tên thì thật sự là khó. Và có khi đó là chiêm bao quá lớn.

Mà không phải chiêm bao nào cũng có thể khai phóng.

H.N  
(TCSH335/01-2017)





 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • TRẦN CAO SƠNTriều Nguyễn tồn tại gần 150 năm, kể từ khi Nguyễn Ánh lên ngôi hoàng đế với niên hiệu Gia Long - năm1802, tạo dựng một đế chế tập quyền trên toàn bộ lãnh thổ mà trước đó chưa hề có. Trải qua một thế kỷ rưỡi tồn tại, vinh hoa và tủi nhục, Triều đại Nguyễn là một thực thể cấu thành trong lịch sử Đại Việt. Những cái do triều đình Nhà Nguyễn mang lại cũng rất có ý nghĩa, đó là chấm dứt cuộc nội chiến, tranh giành quyền lực, xương trắng máu đào liên miên mấy thế kỷ, kiến tạo bộ máy quản lý hành chính trung ương tập quyền thống nhất mà Quang Trung - Nguyễn Huệ đã dày công vun đắp gây dựng trước đó. Dân tộc đã phải trải qua những năm tháng bi hùng với nhiều điều nuối tiếc, đáng bàn đáng nói ngay ở chính hôm nay. Song lịch sử là lịch sử, đó là một hiện thực khách quan.

  • TRẦN HUYỀN SÂMNếu nghệ thuật là một sự ngạc nhiên thì chính tiểu thuyết Thập giá giữa rừng sâu là sự minh định rõ nhất cho điều này. Tôi bàng hoàng nhận ra rằng, luận thuyết: con người cao quý và có tình hơn động vật đã không hoàn toàn đúng như lâu nay chúng ta vẫn tin tưởng một cách hồn nhiên. Con người có nguy cơ sa xuống hàng thú vật, thậm chí không bằng thú vật, nếu không ý thức được giá trị đích thực của Con Người với cái tên viết hoa của nó. Phải chăng, đây chính là lời nói tối hậu với con người, về con người của tác phẩm này?

  • HOÀNG NGỌC HIẾN           ...Từ những nguồn khác nhau: đạo đức học, mỹ học, triết học xã hội-chính trị, triết học xã hội-văn hoá... cảm hứng triết luận trong nghiên cứu, phê bình văn học là nỗ lực vượt lên trên những thành kiến và định kiến hẹp hòi trong sinh hoạt cũng như trong học thuật. Những thành kiến, định kiến này có khi lại được xem như những điều hiển nhiên. Mà đã là “hiển nhiên” thì khỏi phải bàn. Đây cũng là một thói quen khá phổ biến trong nhân loại. Cảm hứng triết luận trong nghiên cứu, phê bình có khi bắt nguồn từ suy nghĩ về chính những điều “hiển nhiên” như vậy...

  • THÁI DOÃN HIỂUVào đời, Lưu Quang Vũ bắt đầu làm thơ, viết truyện, rồi dừng lại nơi kịch. Ở thể loại nào, tài năng của Vũ cũng in dấu ấn đậm đà làm cho bạn đọc cả nước đi từ ngạc nhiên đến sửng sốt. Thơ Lưu Quang Vũ một thời được lớp trẻ say sưa chép và thuộc. Kịch Lưu Quang Vũ một thời gần như thống trị sân khấu cả nước.

  • TRẦN THANH ĐẠMTrong lịch sử nước ta cũng như nhiều nước khác, thời cổ - trung đại cũng như thời cận - hiện đại, mỗi khi một quốc gia, dân tộc bị xâm lược và chinh phục bởi các thế lực bên ngoài thì trong nước bao giờ cũng phát sinh hai lực lượng: một lực lượng tìm cách kháng cự lại nạn ngoại xâm và một lực lượng khác đứng ra hợp tác với kẻ ngoại xâm.

  • ĐỖ LAI THUÝLTS: Trong số tháng 5-2003, Sông Hương đã dành một số trang để anh em văn nghệ sĩ Huế "tưởng niệm" nhà văn Nguyễn Đình Thi vừa qua đời. Song, đấy chỉ mới là việc nghĩa.Là một cây đại thụ của nền văn nghệ cách mạng Việt Nam, Nguyễn Đình Thi toả bóng trên nhiều lĩnh vực nghệ thuật. Bằng chứng qua các bài viết về ông sau đây, Sông Hương xin trân trọng dành thêm trang để giới thiệu sâu hơn, có hệ thống hơn về Nguyễn Đình Thi cùng bạn đọc.

  • ĐẶNG TIẾN…Nguyễn Đình Thi quê quán Hà Nội, nhưng sinh tại Luang Prabang, Lào, ngày 20/12/1924. Từ 1931 theo gia đình về nước, học tại Hải Phòng, Hà Nội. Năm 1941 tham gia Thanh Niên cưú quốc, 1943 tham gia Văn hóa cứu quốc, bị Pháp bắt nhiều lần. Năm 1945, tham dự Quốc Dân Đại hội Tân Trào, vào Ủy ban Giải phóng Dân tộc. Năm 1946, là đại biểu Quốc hội trẻ nhất, làm Ủy viên Thường trực Quốc hội, khóa I…

  • HỒ THẾ HÀ          Hai mươi lăm năm thơ Huế (1975 - 2000) là một chặng đường không dài, nhưng nó diễn ra trong một bối cảnh lịch sử - thi ca đầy phức tạp. Cuộc sống hàng ngày đặt ra cho thể loại những yêu cầu mới, mà thơ ca phải làm tròn sứ mệnh cao cả với tư cách là một hoạt động nhận thức nhạy bén nhất. Những khó khăn là chuyện đương nhiên, nhưng cũng phải thấy rằng bí quyết sinh tồn của chính thể loại cũng không chịu bó tay. Hơn nữa, đã đặt ra yêu cầu thì chính cuộc sống cũng đã chuẩn bị những tiền đề để thực hiện. Nếu không, mối quan hệ này bị phá vỡ.

  • JAMES REEVESGần như điều mà tôi hoặc bất kỳ nhà văn nào khác có thể nói về một bài thơ đều giống nhau khi nêu ra ấn tượng về điều gì đấy được in trên giấy. Tôi muốn nhấn mạnh rằng đây không phải là toàn bộ sự thật. Việc in trên giấy thực ra là một bài thơ gián tiếp. Sẽ dễ dàng thấy điều này nếu chúng ta đang nói về hội hoạ hoặc điêu khắc.

  • NGUYỄN ĐĂNG ĐIỆP...Nguyễn Huy Thiệp không phải là người duy nhất đổi mới phương thức trần thuật. Trước ông đã có Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng... tích cực mở đường. Nhưng phải đến Nguyễn Huy Thiệp thì sự khai phóng về tư tưởng nghệ thuật mới được thể hiện một cách đậm nét. Tất cả được Nguyễn Huy Thiệp kiến tạo qua một trò chơi đầy tính bất ngờ. Giống như người nghệ sĩ ba lê tài năng, Nguyễn Huy Thiệp trình diễn một thế giới đa sắc trên đầu những đầu mũi ngón chân. Những ngón chân ấy bám trụ vào hiện thực một cách tinh diệu, xoay chuyển một cách nhịp nhàng với những vòng quay, những vũ điệu ngôn từ...

  • PHAN NGỌC THUTrong nền văn học Việt Nam thế kỷ XX, Xuân Diệu (1916-1985) là một trong những nhà thơ nổi tiếng nhất, đồng thời cũng là nhà phê bình văn học kiệt xuất. Từ những bài tranh luận văn học sôi nổi thời Thơ Mới (1932-1945) đến Tiếng thơ (1951), Những bước đường tư tưởng của tôi (1958); từ Phê bình giới thiệu thơ (1960) đến Trò chuyện với các bạn làm thơ trẻ (1961), Dao có mài mới sắc (1963), Lượng thông tin và những kỹ sư tâm hồn ấy (1978), Các nhà thơ cổ điển Việt Nam, tập I (1981), tập II (1982) và Công việc làm thơ (1984)... "chỉ tính riêng các tác phẩm lý luận phê bình, đã có thể gọi Xuân Diệu là một đại gia"(1)

  • BÙI QUANG TUYẾNThơ mới là một hiện tượng nổi bật của văn học Việt Nam nói chung và thơ ca nói riêng trong thế kỷ XX. Nó vừa ra đời đã nhanh chóng khẳng định vị trí xứng đáng trong nền văn học dân tộc với các "hoàng tử thơ": Thế Lữ, Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử v..v...

  • HÀ KHÁNH CHINgày 20 - 3 - 2003, siêu cường lớn nhất mọi thời đại là đế quốc Hoa Kỳ đã mở đầu cuộc chiến tranh kỳ quái nhất trong lịch sử bằng cách tấn công Iraq sau khi đã bắt quốc gia này phải tự phá huỷ vũ khí tự vệ của chính họ. Đó là bài học chưa hề thấy về chút hy vọng cuối cùng mà lương tri nhân loại có thể đòi hỏi. Để có thể hiểu rõ hơn những gì đang xảy ra hôm nay - có lẽ cũng rất cần ôn lại một trong những vấn đề lớn nhất mà loài người có thể nghĩ tới: cuộc chiến tranh Việt Nam đã kết thúc cách đây gần 30 năm.

  • HOÀNG ĐĂNG KHOA Văn học Việt từ sau 1975, nhất là từ thời kỳ đổi mới, là một quá trình văn học rất phong phú, đa dạng và không ít phức tạp, lại còn đang tiếp diễn. Cuốn sách Văn học Việt Nam sau 1975 - Những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy ra đời đáp ứng nhu cầu mang tính thời sự: nhu cầu nhìn nhận, đánh giá một cách khách quan, toàn diện về tiến trình văn học ba mươi năm qua, chuẩn bị cho sự ra đời của những công trình văn học sử và những chuyên khảo về giai đoạn văn học này.

  • NGUYỄN QUANG HÀTrong đời có những bài thơ người ta quên, mà chỉ nhớ một câu nằm lòng. Bởi đó là những câu thơ thực sự, những câu thơ thi sĩ. Từ xưa đến nay, đã có rất nhiều định nghĩa về thơ: Thơ là tiếng hát của trái tim; Thơ là hạt muối kết tinh của tình cảm; Thơ là phút giây rung động của tâm hồn... Nói chung, những định nghĩa ấy cho ta hiểu rằng ở đâu có được sự rung động của trái tim thì ở đó có thơ.

  • ĐỖ LAI THUÝPhê bình văn học Việt Nam, sau sự khởi nguồn của Thiếu Sơn với Phê bình và Cảo luận (1933) chia thành hai ngả. Một xuất phát từ Phê bình để trở thành lối phê bình chủ quan ấn tượng với Hoài Thanh và Thi nhân Việt Nam (1942). Lối kia bắt nguồn từ Cảo luận tạo nên phê bình khách quan khoa học với Vũ Ngọc Phan của Nhà văn hiện đại (1942), Trần Thanh Mai của Hàn Mặc Tử (1941), Trương Tửu của Nguyễn Du và Truyện Kiều (1942), Tâm lý và tư tưởng Nguyễn Công Trứ (1945). Sự phân chia này, dĩ nhiên, không phải là hành chính, mà là khoa học, tức sự phân giới dựa trên những yếu tố chủ đạo, nên không phải là không thể vượt biên. Bởi, mọi biên giới đều mơ hồ hơn ta tưởng, nhất là ở khoa học văn chương.

  • LTS: Marcel Reich-Ranicki, sinh năm 1920, người ở Đức được mệnh danh là "Giáo hoàng văn học", là nhà phê bình văn học đương đại quan trọng nhất của CHLB Đức. "Một lời biện hộ cho thơ" là bài thuyết trình đọc vào ngày 30.11.1980 nhân dịp ra mắt Tập 5 của "Tuyển thơ Frankfurt" trong khuôn khổ chuyên mục thơ của nhật báo "Frankfurter Allgemeine Zeitung" (FAZ) mà tác giả là chủ biên phần văn học từ 1973 đến 1988.Sông Hương xin trân trọng giới thiệu bài "Một lời biện hộ cho thơ" của ông sau đây do dịch giả Trương Hồng Quang thực hiện.

  • TRẦN HUYỀN SÂMGeorge Sand (1804-1876) là một gương mặt độc đáo trên văn đàn Pháp thế kỷ XIX. Cùng thời với những cây bút nổi tiếng như: A.Lamartine, V.Hugo, A.Vigny, A.Musset... nữ sĩ vẫn tạo cho mình một tầm vóc riêng không chìm khuất. George Sand bước vào thế giới nghệ thuật bằng một thái độ tự tin và một khát vọng sáng tạo mãnh liệt. Với hơn hai mươi cuốn tiểu thuyết đồ sộ, G.Sand đã trở thành một tên tuổi lừng danh ngay từ đương thời. Dĩ nhiên, bà lừng danh còn bởi nhiều mối tình bất tử, trong đó có nhà thơ Pháp nổi tiếng A.Musset và nhạc sĩ thiên tài Chopin người Ba Lan.

  • PHẠM QUANG TRUNGCó lần, dăm ba người có thiên hướng lý luận chúng tôi gặp nhau, một câu hỏi có thể nói là quan thiết được nêu ra: trong quan niệm văn chương, e ngại nhất là thiên hướng nào? Rất mừng là ý kiến khá thống nhất, tuy phải trải qua tranh biện, không đến nỗi quyết liệt, cũng không phải hoàn toàn xuôi chiều hẳn. Có lẽ thế mới hay!

  • NGUYỄN HỮU HỒNG MINH1- "Thơ trẻ- Những giá trị mới" là một "mưu mô" của nhà phê bình trẻ Nguyễn Thanh Sơn và nhóm "Văn nghệ mới" (bao gồm Nguyễn Hữu Hồng Minh, Văn Cầm Hải, Phan Huyền Thư, Ly Hoàng Ly, Nguyễn Vĩnh Tiến, Dạ Thảo Phương... và một số người khác) dự tính tập hợp, tuyển chọn 1 tuyển thơ của 10 (hay nhiều hơn) tác giả trẻ từ 30 tuổi trở xuống, xuất hiện trong vòng 3 năm cuối cùng của thế kỉ để trình làng giới thiệu chân dung thế hệ mình.