Hãy xem mấy dòng mở đầu của Lê Quý Kỳ: "Văn học là nhân học, là khoa học về con người. Có lẽ đến bây giờ không ai nghi ngờ gì về định nghĩa đó của người xưa". Thực ra, cái ý văn học là nhân học chính là của nhà phê bình Nga nổi tiếng V.G.Biêlinxki (1811-1848), có gì phải mù mờ phiếm chỉ "định nghĩa của người xưa". Tôi không rõ anh dùng chữ người xưa là như thế nào? Còn anh viết văn học "là khoa học về con người" thì chung chung quá thể, không biết anh dẫn từ đâu, có khác gì cách nói "y học là khoa học về con người"! Thêm nữa, nếu quả thật "Có lẽ đến bây giờ không ai nghi ngờ gì về định nghĩa đó của người xưa" thì anh còn đặt lại vấn đề làm gì, còn "có lẽ" để làm gì? Rồi cứ với đà mù mờ phiếm chỉ như thế, Lê Quý Kỳ hăng hái cưỡi ngựa kỳ ngựa ký múa gươm tấn công vào KHÔNG AI CẢ- "có người cho rằng", "có người chợt phát hiện ra rằng", "vừa qua có một số người", "các nhà phục chế", "họ quay ra phục chế", "ai đó ngộ nhận", "họ lấy làm tiếc", "họ chia tay", "họ tự phong"... Xin cứ xem như Lê Quý Kỳ không thuộc số văn nhân cô tình- lạc lõng- ngộ nhận trên kia, cứ giả định tin vào bầu nhiệt huyết, nhãn quan nhìn xa trông rộng và vốn kiến thức đong vừa đầy nhất thốn của Lê Quý Kỳ trước những người KHÔNG AI CẢ, thì đến lượt anh, thử hỏi anh có đề xuất gì mới? 7- Do thiếu một căn bản lập trường học thuật vững vàng nên Lê Quý Kỳ thường bị sa lầy trong câu chữ, trong hình thức tư duy rối rắm, tiền hậu bất nhất. Ngay trong cách đánh giá về văn học đương đại, có khi anh vừa xác định "chọn cái tôi" làm điểm tựa nhưng liền đó lại qui kết, nói ngược: "Vừa qua có một số người cố tình làm ầm ĩ về chuyện cái tôi xuất hiện lại trong văn học và xem đó như là sự chỉnh trị dòng chảy văn học dân tộc...", rồi ngay đó lại khẳng định, hô hào, kêu gọi cuộc thánh chiến tử vì đạo cho một cái tôi: "Đây là một yêu cầu, một nhiệm vụ hết sức khó khăn. Bởi vì không phải ai cũng đồng cảm được với nhận thức này, khi quyết định dùng cái tôi làm cuộc cách mạng trong văn học!". Chưa ai rõ hình hài "cuộc cách mạng trong văn học" lần này rồi sẽ đi tới đâu, nhưng riêng lời hiệu triệu của Lê Quý Kỳ thì đã sớm chết chìm trong mớ câu chữ tiền hậu bất nhất kia... |
Theo định nghĩa hiện nay, trường ca là một tác phẩm thơ có dung lượng lớn, thường có cốt truyện tự sự hoặc trữ tình.
(Phát biểu ý kiến góp phần vào nội dung Đề án Nghị quyết về “Xây dựng đội ngũ trí thức, văn nghệ sĩ trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH...” của Ban Tuyên giáo Trung ương).
1. Cuốn sách về nhà tình báo nổi tiếng - anh hùng Phạm Xuân Ẩn (PXÂ) của giáo sư sử học người Mỹ Larry Berman, khi được xuất bản bằng tiếng Việt có thêm phụ đề “Cuộc đời hai mặt không thể tin được của Phạm Xuân Ẩn”.
Lâm Thị Mỹ Dạ là một nhà thơ trưởng thành trong phong trào chống Mỹ. Nhắc đến thơ chị, người ta thường nhớ đến những bài thơ mang đậm âm hưởng sử thi như Khoảng trời, hố bom, hoặc dịu dàng, nữ tính nhưng không kém phần thẳng thắn như Anh đừng khen em, hoặc nồng cháy yêu đương như Không đề…
"Không có cách khác, thưa ngài. Tất cả cái gì không phải văn xuôi thì là thơ; và tất cả cái gì không phải thơ thì là văn xuôi"(Gã tư sản quý tộc, Molière). Trên đây là định nghĩa "thâm thúy" của thầy dạy triết cho ông Jourdain, người mà đã hơn bốn mươi năm trời vẫn sai bảo người ăn kẻ làm, vẫn hằng ngày trò chuyện với mọi người bằng "văn xuôi" mà không tự biết.
(Trò chuyện trên Sông Hương)
Trong những vấn đề mới của lý luận văn học hiện nay, các nhà nghiên cứu thường nói đến chức năng giao tiếp của văn học. Khi nói văn học có chức năng giao tiếp thì cũng có nghĩa cho rằng văn học ở ngoài giao tiếp.
PHONG LÊ …Không đầy hai thập niên đầu thế kỷ, trong những thức nhận mới của đất nước, nền văn chương- học thuật của dân tộc bỗng chuyển sang một mô hình khác- mô hình quốc ngữ, với sức chuyên chở và phổ cập được trao cho phong trào báo chí, xuất bản bỗng lần đầu tiên xuất hiện và sớm trở nên sôi nổi như chưa bào giờ có trong ngót nghìn năm nền văn chương học thuật cổ truyền…
Vừa qua bà văn sĩ Nguyễn Khoa Bội Lan ở Phú Thượng (Huế) đột ngột gọi dây nói cho tôi than phiền về những chi tiết sai với lịch sử trong bài Phạn Bội Châu với Hương Giang thư quán của Chu Trọng Huyến đăng trên Tạp chí Sông Hương số 116 (10. 1998)
Chúng tôi cho rằng trong lịch sử văn học Việt chỉ có Chí Phèo mới là một hình tượng đích thực. Chí Phèo là hiện thân của sự tồn tại vĩnh cửu của bản ngã VÔ CAN.
Đó là bản đàn Thúy Kiều đàn cho Kim Trọng nghe lần cuối trong ngày tái hợp. Bản đàn chứa đầy những mâu thuẫn nghịch lý, bởi vì cũng như bao lần trước, lần này vẫn là bản “bạc mệnh” năm xưa. Nhập hồn Kim Trọng, Nguyễn Du bình luận: Lọt tai nghe suốt năm cung Tiếng nào là chẳng não nùng (*) xôn xaoTác quyền và nghệ nhân biểu diễn vẫn là nàng Kiều chứ không còn ai khác, nhưng thật lạ: Xưa sao sầu thảm, nay sao vui vầy?Kim Trọng, tri âm và trong cuộc vẫn không khỏi "hồ đồ", huống gì chúng ta, những người đến sau Nguyễn Du muộn hơn hai thế kỷ?
Có thể nói, học tập phong cách ngôn ngữ Chủ tịch Hồ Chí Minh, trước hết, là học tập cách viết và cách lập luận chặt chẽ qua từng câu chữ, mỗi trang văn chính luận. Những văn bản: “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến”, “Tuyên truyền”, “Bản án chế độ thực dân Pháp”, “Tuyên ngôn Độc lập” luôn là những áng văn mẫu mực về phong cách ngôn ngữ ngắn gọn, chắc chắn, dễ hiểu, chính xác và giàu cảm xúc.
NGUYỄN ĐĂNG ĐIỆP1. Đội ngũ các nhà văn trẻ mà tôi nói tới trong bài viết này là những cây bút sinh ra sau 1975. Biết rằng trong văn chương, khái niệm trẻ/ già chỉ là một khái niệm có tính “tương đối” vì già hay trẻ đều phải nỗ lực để tạo nên những tác phẩm xuất sắc, vị trí của họ phải được đánh giá thông qua tác phẩm chứ không phải từ những chiếu cố ngoài văn học.
NGUYỄN KHẮC PHÊTrong văn chương, cách gọi “chủ nghĩa” này hay “chủ nghĩa” khác đều không ổn, thậm chí có hại vì vô hình trung như thế là cách buộc nhà văn theo “một con đường” vạch sẵn mà từ hơn nửa thế kỷ trước, Hải Triều đã lên án...