LẠI NGUYÊN ÂN
Bạn đọc ngày nay đều biết bài thơ Huế tháng Tám nổi tiếng của nhà thơ Tố Hữu, bài thơ được in trong tập Từ ấy và cho đến nay đã có mặt ở hầu hết các tuyển tập thơ Tố Hữu, đã đi vào sách giáo khoa của nhà trường phổ thông.
Nhà thơ Tố Hữu năm 1945 - Ảnh: TL
Tuy nhiên, có lẽ còn ít bạn đọc biết rằng bài thơ ấy ở lần in đầu tiên, lại có một nhan đề khác và về mặt văn bản cũng có một số khác biệt với bản đang phổ biến hiện nay.
Trong việc làm thơ xưa nay, việc nhuận sắc, sửa chữa là một việc thông thường. Đối với người nghiên cứu và tìm hiểu thì các khác biệt trên các dị bản lại có nhiều điều lý thú, cho thấy nhiều phương điện khác nhau của hoạt động sáng tạo. Hơn nữa, nếu tính chỉnh thể của một tác phẩm được quan niệm không chỉ trong nội bộ văn bản mà còn cần được quan niệm trong sự thống nhất của văn bản tác phẩm với trạng thái xúc cảm và nhận thức của một thời điểm sáng tác nhất định thì dị bản đầu tiên bao giờ cũng có một ý nghĩa đặc biệt, cho dù nó không phải là dị bản cuối cùng - được lưu hành rộng rãi - của tác phẩm đó đi nữa.
Để giúp bạn đọc hiểu thêm, chúng tôi xin giới thiệu sau đây đôi nét về dị bản đầu tiên này của bài Huế tháng Tám.
Trên tạp chí Ánh Sáng (cơ quan tuyên truyền cổ động của Hội nghiên cứu chủ nghĩa Mác ở Huế, tức là của Đảng bộ Đảng cộng sản Đông Dương Huế) xuất bản ở Huế, số kép 12-13 ra ngày 19-8-1946, số đặc biệt của tạp chí này kỷ niệm một năm ngày Cách mạng tháng Tám, có đăng một bài thơ của Tố Hữu nhan đề: 23-8-1945, nhan đề gắn với ngày cách mạng thắng lợi ở cố đô.
Toàn bộ bài thơ như sau:
23-8-1945
Huế trầm mặc hôm nay sao khác khác,
Những mắt huyền ngơ ngác hỏi thầm nhau
Chân nôn nao như khách đợi mong tàu
Bước dò bước, không biết sau hay trước.
Tim hồi hộp, vì sao? Ai hẹn ước
Ai đang về? Dáng đó thấp hay cao?
Mắt đỏ lòe, như lửa hay như sao?
Người hay bóng? Ngoài vào hay trong tới?
Giáng từ trên hay là vươn từ dưới?
Huế ngây thơ, lo lắng, những tâm linh
Khát khao hoài. Trinh nữ ấy đang rình
Sau cửa hé, người yêu chưa biết mặt…
Trên Hương giang, hoang mang đò lạnh ngắt
Tiếng đàn im, ca kỹ nép phương nào?
Trăng thì thầm chi với sóng xôn xao?
Đức Kim Thượng đêm nay trong ngọc điện
Ngự lên lầu, trông lên cao: xao xuyến
Muôn vì sao… lạnh lẽo thấm hoàng bào
Người rùng mình tưởng đứng đỉnh cù lao
Nỗi cô độc giữa gió triều biển động.
Đôi gốc đại nghiêng nghiêng tàn lay bóng
Sầu thâm cung vờ vật dưới sân chầu
Người đứng đây, trăm họ đang về đâu?
Đỉnh thần đó, rầu rầu thân đá trắng
Quá khứ nặng đè xuống đầu cúi lặng…
Cánh tay nào cất nổi gánh giang sơn?
Lòng muôn dân rần rật lửa căm hờn
Máu giải phóng đã lôi lòng nhân loại!
Nên Kim thượng đêm nay vui… chiến bại
Để toàn dân chiến thắng giữ ngôi son
Người phải lui cho Dân tiến, Nước còn
Thôi thôi vậy. Tiên vương ôi, nghiệp đế!
Người đã quyết "không làm vua nô lệ"
Xuống làm dân nước độc lập hoàn toàn…
Và rạng ngày, chiếu xuống khắp dân gian:
"Trẫm hy sinh cả ngai vàng, bệ ngọc"
Chừ đây Huế, Huế ơi! Ha ha! cười mà khóc
Ta say rồi, ha ha, khóc mà cười!
Nước mắt ta trào húp mí, tràn môi
Cổ ta ré trăm trận cười, rợn óc.
Ta ôm nhau, đấm nhau quay lăn lóc
Hả hê chưa! Ai dám bịt mồm ta?
Ta hét huyên thiên, ta chạy khắp nhà
Ai dám cấm ta điên, điên thần thánh?
Ngực lép bốn ngàn năm, trưa nay cơn gió mạnh
Thổi phồng lên. Tim bỗng hóa mặt trời
Có con chim nào trong tóc nhảy nhót hót chơi
Ha! Nó hót cái gì vui nghe ngộ quá!
Thôi cơm làm chi, cho ta chum nước lã,
Khát khát ghê, uống nứt cả buồng gan.
Nóng chết người! da thịt ta khô ran
Xé toạc áo, đánh trần phi giữa phố.
Gió gió ơi! hãy làm giông làm tố
Cuốn tung lên cờ đỏ máu thơm tươi!
Vàng vàng bay đẹp quá, sao sao ơi!
Ta ngã vật trong dòng người cuộn thác.
Ôi thiên đường! Tai mê man lắng nhạc
Từ muôn phương nghe gót nện rầm rầm
Việt Nam! Việt Nam! Việt Nam muôn năm!
Tố Hữu
Xin khỏi chép thêm ra đây bài Huế tháng Tám trong dạng thức hiện nay, vì bạn đọc có thể tìm được trong các tuyển thơ Tố Hữu. Chỉ xin nói thêm một số lời có tính chất bình chú.
Cả bài 23-8-1945 giống như bài Huế tháng Tám, tựa như một hợp khúc gồm 3 đoạn chính.
Ở đoạn 1 (15 câu đầu), sự khác biệt giữa hai dị bản không nhiều. Mấy câu của 23-8-1945:
Ai đang về? Dáng đó thấp hay cao?
Mắt đỏ lòe, như lửa hay như sao?
Người hay bóng? Ngoài vào hay trong tới?
Đến Huế tháng Tám được sửa thành:
Ai đang về? Đáng đó thấp hay cao?
Mắt sáng ngời, như lửa hay như sao?
Người hay mộng? Ngoài vào hay trong tới.
Có thể đoán rằng phương hướng thay đổi, nhuận sắc ở đây là nhằm điều chỉnh lại cách hình dung về cách mạng trong nhận thức khi đó, bớt đi sắc thái bộc trực khi đó (có thể thành khiếm nhã trong cảm thụ của độc giả sau này), làm cho nó có thêm sắc thái chín chắn, làm cho cách nói trở nên trang nhã hơn, tuy rằng cũng để mất đi (làm sao khác được!) nét ngây thơ, ấu trĩ của kỷ niệm cũ.
Mấy chữ trong các câu:
Huế ngây thơ, lo lắng, những tâm linh
Khát khao hoài. Trinh nữ ấy đang rình
và
Trên Hương Giang hoang mang đò lạnh ngắt.
được sửa thành:
Huế xôn xao lo lắng, những đêm mơ
Khát khao hoài, như cô gái mong chờ
và
Trên Hương Giang mênh mang đò lạnh ngắt
có vẻ như chỉ thay cách nói, cách gọi, cho nó vừa "ngày nay" hơn, lại vừa giản dị, nhã nhặn hơn, thật ra cũng là đưa cách nhận thức mới để điều chỉnh lại cách nhận thức của thời kỳ ấy.
Ở đoạn hai, cảnh hoàng cung, về đại thể, sự sửa chữa cũng không nhiều. Đây là đoạn của loại trữ tình nhập vai, thử nhập vào vai Đức Kim Thượng để diễn tả sự lung lay, thoái lui của ngôi vua trước làn sóng cách mạng của toàn dân. Dấu ấn lịch sử của việc diễn tả đoạn này khá đậm cho nên trong Huế tháng Tám sau này, tác giả đã cho in một lời chú thích: "Bài thơ này làm trong thời kỳ Bảo Đại còn được Chính phủ Dân chủ Cộng hòa cho giữ chức cố vấn, sau khi hắn thoái vị trước áp lực của cách mạng". Tuy nhiên sự đối chiếu sẽ cho ta thấy là nhà thơ không nệ lắm vào tính chất lịch sử ấy, ông mạnh dạn sửa chữa để các thế hệ độc giả trẻ khỏi nhận lầm ý nghĩa của một sách lược cách mạng khi thực chất nhu nhược và phản bội của "đức vua" còn chưa lộ ra. Câu:
Cánh tay nào cất nổi gánh giang sơn?
như từ vai "đức vua" mà nói, đã được thay bằng lời khẳng định từ phía cái tôi trữ tình của nhà thơ, nó rắn rỏi hẳn cho dẫu câu thơ có trở nên ít nhiều trúc trắc: Một ngai vàng không thể thắng cả giang sơn.
Và cả mấy câu cuối trong dị bản đầu tiên:
Máu giải phóng đã lôi lòng nhân loại
Nên Kim Thượng đêm nay vui... chiến bại
Để toàn dân chiến thắng, giữ ngôi son
Người phải lui cho Dân tiến, Nước còn!
Thôi thôi vậy! Tiên vương ôi, nghiệp đế
Người đã quyết "không làm vua nô lệ"
Xuống làm dân nước độc lập hoàn toàn...
Và rạng ngày, chiếu xuống khắp dân gian
"Trẫm hy sinh cả ngai vàng, bệ ngọc".
dẫu có nét mỉa mai không dấu giếm, nhưng vẫn còn tỏ thiện cảm với ông vua chiến bại này khi ông ta còn chưa trốn chạy cái trách nhiệm thông thường của công dân một nước độc lập. Nhưng đến Huế tháng Tám, chân tướng Bảo Đại đã lộ rõ, nhà thơ đã sửa lại khá nhiều:
Máu giải phóng đã sôi lòng nhân loại
Người phải xuống, đêm nay, đêm chiến bại
Để toàn dân chiến thắng, giữ ngôi son
Người phải lui cho Dân tiến, Nước còn
Dân là chủ, không làm nô lệ nữa
Hãy mở mắt: quanh hoàng cung biển lửa
Đã dâng lên, ngập Huế đỏ cờ sao
Mở mắt trông: trời đất bốn phương chào
Một dân tộc đã ào ào đứng dậy!
Có lẽ vấn đề sửa chữa ở đây không phả là ở câu chữ, dẫu có như thế thật. Cái quan trọng ở đây là có cả sự thay đổi của thể tài. Nếu những câu này ở 23-8-45 là sự xen kẽ và bổ sung nhau giữa trữ tình nhập vai với lời đối thoại khuyên nhủ của cái tôi trữ tình (của nhà thơ) trước "Đức Kim Thượng", thì cũng những câu này ở Huế tháng Tám lại chủ yếu là phát ngôn của cái tôi trữ tình, hơn nữa cái "tôi" này đã hòa vào quần chúng cách mạng, đại diện cho quần chúng cách mạng để nói sự thật vào mặt cái con người từng làm "vua nô lệ" ấy. Không còn chuyện ông ta xuống chiếu thoái vị, hy sinh ngai vàng nữa. Ngay cả cái tuyên bố "không làm vua nô lệ" của ông ta cũng không còn đáng nói nữa. Cái đáng nói là sự đứng lên của cả một dân tộc.
Như thế, chính tiến trình nhận thức lịch sử đã đưa đến sự sửa chữa nói trên. Ở đây, thơ, ghi sự kiện tại chỗ đã chuyển thành thơ chính luận lịch sử. Yếu tố hồi cố với cái nhìn có điều chỉnh đã đóng vai trò quan trọng trong việc sửa chữa tinh thần và lời lẽ những câu thơ cuối đoạn thứ hai này.
Ở đoạn 3, như ta biết, là đoạn bùng nổ của tâm trạng trữ tình trước thắng lợi vĩ đại của cách mạng. So sánh dị bản ở 23-8-45 với Huế tháng Tám, ta không thấy sự khác biệt bao lăm ở tinh thần, ở nhận thức, ở xu thế chung. Nhưng lại có sự khác biệt khá nhiều ở chữ dùng, ở lời lẽ, và qua đó, ở các sắc thái biểu cảm, ở mức độ thể hiện sức bùng phá của niềm vui giải phóng, niềm vui thắng lợi. Ngay trong những câu:
Nước mắt ta trào húp mí, tràn môi
Cổ ta ré trăm trận cười trận khóc!
(vốn là: Cổ ta ré trăm trận cười rợn óc) và:
Ngực lép bốn ngàn năm trưa nay cơn gió mạnh
Thổi phồng lên. Tim bỗng hóa mặt trời
Có con chim nào trong tóc nhảy nhót hót chơi
Vốn chủ yếu được giữ nguyên như bản đầu tiên, nhưng các nhà phê bình đã có thể nói đến sự vận dụng các thủ pháp của thơ siêu thực.
Thế thì trước những câu trong Huế tháng Tám:
Chừ đây Huế, Huế ơi! Xiềng gông xưa đã gãy.
Hãy bay lên! Sông núi của ta rồi.
Ta ôm nhau hôn nhau từng mái tóc,
Hả hê chưa ai bịt được mồm ta
Ta hét huyên thiên, ta chạy khắp nhà
Ai dám cấm ta say, say thần thánh trong 23-8-45 lại vốn là:
Chừ đây Huế, Huế ơi! ha ha! cười mà khóc
Ta say rồi, ha ha, khóc mà cười
Ta ôm nhau, đấm nhau quay lăn lóc
Hả hê chưa! Ai dám bịt mồm ta
Ta hét huyên thiên, ta chạy khắp nhà
Ai dám cấm ta điên, điên thần thánh
và nhất là những câu này nữa (không còn giữ lại trong Huế tháng Tám):
Thôi cơm làm chi, cho ta chum nước lã
Khát khát ghê, nóng nứt cả buồng gan
Nóng chết người! da thịt ta khô ran
Xé toạc áo, đánh trần phi giữa phố.
Không biết liệu rằng trước những câu như vừa dẫn ở dị bản đầu tiên, ngươi ta còn có thể chứng minh cho yếu tố siêu thực đến đâu! Song le, vấn đề chưa hẳn đã ở việc duy danh định vị vào quan hệ với một trường phái nghệ thuật nào đó. Ở đây có sự diễn đạt một niềm vui thuần túy tinh thần (niềm vui giải phóng, niềm vui độc lập, niềm vui cách mạng) bằng cách phô bày những trạng thái thể chất, những trạng thái nhục thể. Ta có thể liên tưởng những câu thơ dẫn trên với cách biểu cảm của hội họa hay điêu khắc. Sự biến dạng đến cực đoan của hình thể có thể gợi lên ấn tượng mạnh về trạng thái cảm xúc. Với một niềm vui xé ra, một niềm vui điên lên, một niềm vui nổ tung, khó có thể làm hiện hình lên được qua những tư thế cân bằng, chừng mực.
Và đứng về phương diện đó, sự sửa chữa hoặc tước bớt các chữ dùng và câu thơ trong Huế tháng Tám, tuy vẫn còn đậm niềm vui say trong ngày cách mạng thắng lợi nhưng cũng đã để mất không ít những tư thế và trạng thái say sưa đến cuồng nhiệt của ngày ấy.
Sau bốn chục năm, cái cuồng nhiệt phấn khích đến cực đoan ngày đó dẫu không thể phục hiện lại hoàn toàn, nhưng vẫn gây được ấn tượng mạnh ở những thế hệ độc giả sinh sau về một ký ức khó phai mờ trong lịch sử dân tộc.
3-5-1985
L.N.A
(SH21/10-86)
Nhà văn Nguyễn Quang Hà tâm sự với tôi rằng anh có hai món nợ rất lớn mà chắc đến khi nhắm mắt xuôi tay cũng không thể nào trả xong. Hai món nợ mà anh đang gánh trên đôi vai của mình là món nợ đối với nhân dân và món nợ đối với đồng đội. Gần bốn mươi năm cầm bút, anh đã viết 9 tập tiểu thuyết; 7 tập truyện ngắn, ký, truyện ký; 2 tập thơ cùng với hàng trăm bài báo cũng chỉ mong sao trả được hai món nợ ấy.
XUÂN CANGNhờ cuốn hồi ký nhỏ Ngày ấy Trường Sơn (Nxb Hội Nhà văn - Hà Nội - 2000) của Nguyễn Khoa Như Ý- tên khai sinh của Hà Khánh Linh, bạn đọc được biết đây là một nhà văn nữ có khí chất không bình thường. Một người con gái mảnh dẻ, nhưng có chí, mơ mộng, ham hành động, vì nghĩa lớn mà dấn thân vào nơi nguy hiểm.
Sau Vị giáo sư và ẩn sĩ đường, Ba lần đến nước Mỹ, trong năm 2002, GS. Hà Minh Đức tiếp tục ra mắt bạn đọc tác phẩm Tản mạn đầu ô. Vậy là trong khoảng 5 năm, bên cạnh một khối lượng lớn những tác phẩm nghiên cứu, lý luận, phê bình, ông đã sáng tác 3 tập thơ và 3 tập bút ký. Đó là những con số mang nhiều ý nghĩa thể hiện sự "đa năng" của một đời văn tưởng đã yên vị với nhiều danh hiệu cao quý và hơn 30 tập sách nghiên cứu, lý luận, phê bình. Tản mạn đầu ô ra đời được dư luận chú ý, quan tâm. Sau đây là cuộc trao đổi giữa PGS. TS Lý Hoài Thu với GS. Hà Minh Đức xung quanh tập sách này.
HUỲNH HẠ NGUYÊN (Đọc tập thơ "Khúc đêm" của Châu Thu Hà - Nxb Thuận Hoá - 11/2002)...Thơ Châu Thu Hà mang đậm nữ tính. Khi trái tim biết cười, hay khi giàn giụa nước mắt, ta bỗng thấy quý sao những phút sống chân thành với cuộc đời, với mọi người. Châu Thu Hà không để trái tim mình tuột xuống phía bên kia triền dốc, chị cố bước tới và neo lại, để thấy mình được xẻ chia, được yêu chiều, xoa dịu...
LÊ MỸ Ý (L.M.Y): Thưa nhà thơ, là một người có thể tạm gọi là thuộc thế hệ đi trước nhưng lại luôn "gây sốc" bằng những tác phẩm tìm tòi mới, chắc hẳn ông có quan tâm nhiều đến thế hệ thơ trẻ? Có thể có một nhận xét chung về thơ trẻ hiện nay chăng?NHÀ THƠ HOÀNG HƯNG (H.H): Tất nhiên là tôi rất quan tâm. Nhận xét chung của tôi về thơ trẻ bây giờ là đa số vẫn mang tính phong trào. Có thể nói là những người làm thơ trẻ vẫn đi theo một vết mòn của thế hệ trước, chưa thấy rõ những bứt phá, chỉ nổi lên một số tác giả theo cách lẻ tẻ.
Tại sao cô chỉ làm thơ tự do?- Trước hết, bởi tôi thích tự do. Tự do ở đây, được hiểu là: nói, làm, dám mơ ước và tham vọng tất cả những gì mình muốn, không bị tác động và chi phối bởi ai, bởi bất cứ điều gì.
NGUYỄN THỤY KHA Đã là lạ tên một tác phẩm khí nhạc mang tực đề "Eo lưng" của nữ nhạc sĩ Kim Ngọc. Lại thu thú khi đọc tập thơ "Nằm nghiêng" của nữ thi sĩ Phan Huyền Thư. Một thế kỷ giải phóng của Việt Nam thật đáng kính ngạc.Cái cách giải phóng mình, phái yếu trong đó có mình của Phan Huyền Thư là sự độ lượng với cũ kỹ, là mỉa mai sự nửa vời, là quyết liệt lặng lẽ vươn tới cách tân theo một thế của “Nằm nghiêng”.
NGUYỄN TRỌNG TẠOCòn nhớ mùa Huế mưa 1992, Nguyễn Khắc Thạch và Ngô Minh đến nhà tôi chơi, mang theo bản thảo đánh máy tập thơ đầu tay của một tác giả mới 20 tuổi có tên là Văn Cầm Hải. Một cái tên lạ mà tôi chưa nghe bao giờ. Những bài thơ của anh cũng chưa hề xuất hiện trên mặt báo. Nguyễn Khắc Thạch và Ngô Minh đều nói rằng; "Thơ tay này lạ lắm. Ông xem thử".
NGUYỄN QUANG HÀNgồi đọc NGÀN NĂM SAU mà như đang ngồi nói chuyện tay đôi với Nguyễn Trọng Bính. Giọng thơ anh cũng cứ chân chất, yêu quê hương và say đời như chính con người anh. Từ thời chiến tranh, chúng tôi đã ở trong rừng với nhau. Cứ ngồi với nhau là bộc bạch hết. Một lá thư riêng, một rung động mới, chúng tôi cũng chia sẻ với nhau.
PHAN THÀNH MINHĐó cũng là tựa đề tập thơ rất dễ thương của Trần Tịnh Yên - nhà thơ của đất kinh kỳ thơ mộng thuở nào - thú thật là tôi đã vô cùng hạnh phúc khi nhận được tập thơ này do chính tác giả gởi tặng, dễ thương ở chỗ khổ giấy nhỏ nhắn, trình bày đẹp trang nhã, sách 80 trang với 46 bài thơ cũng mỏng mảnh như thế nhưng nhìn rất thơ, càng thơ hơn nữa khi chính tác giả tự viết lời phi lộ cho mình, tôi rất hợp với anh ở điểm này bởi lẽ chẳng ai có thể thay thế cho mình bằng mình để nói hộ những gì mình muốn nói...:...năm xưa qua ngõ sân đìnhcó người nhặt được mối tình ai rơi
NAM NGỌC (Về tập truyện ngắn mới nhất của nhà văn Võ Thị Xuân Hà do Công ty Truyền thông Hà Thế liên kết NXB Phụ nữ xuất bản và phát hành quý I năm 2009)Tập truyện gồm 14 truyện ngắn, với những mô típ khác nhau nhưng cùng chung gam màu thấm đẫm chất liệu hiện thực. Tất cả đã tạo nên một chỉnh thể thống nhất mà ở đó các nhân vật dù xấu dù tốt cũng đều hướng tới cái đẹp, cái nhân bản của con người. Cách viết truyện lạ cùng với những chi tiết, tình tiết được lắp ghép một cách khéo léo, Võ Thị Xuân Hà đã một lần nữa gây ngạc nhiên cho người đọc bằng bút pháp ẩn không gian đa chiều của mình.
BÍCH THUHơn một thập niên trước đây, với hai truyện ngắn Hồi ức của một binh nhì và Vết thương lòng, Nguyễn Thế Tường đã đoạt giải cao trong cuộc thi truyện ngắn do Tạp chí Văn nghệ quân đội tổ chức năm 1992 - 1994. Tôi còn nhớ một trong số các nhà phê bình đã thành danh của nhà số 4 Lý Nam Đế không kìm được cảm xúc của mình với chùm truyện dự thi của Nguyễn Thế Tường lúc ấy đã thốt lên: “Tôi thích truyện ngắn Nguyễn Thế Tường”. Từ đó đến nay, Nguyễn Thế Tường vẫn miệt mài viết và lặng lẽ ra sách. Người đàn bà không hoá đá là lần ra mắt thứ năm của anh.
HOÀNG VŨ THUẬT (Đọc “Trăng đợi trước thềm”, thơ Hải Bằng, NXB Thuận Hoá - 1987)Đổi mới là trách nhiệm vừa là bổn phận đang diễn ra sôi động trong đời sống văn học hôm nay. Nhưng ranh giới giữa cũ và mới không dễ dàng phân định khi đánh giá một tác phẩm văn chương nghệ thuật.
ĐINH NAM KHƯƠNG (Nhân đọc “ru em ru tôi” Thơ Trương Vĩnh Tuấn NXB: Hội nhà văn - 2003)Có một nhà thơ nổi danh thi sĩ, làm “quan” khá to ở báo văn nghệ. Nhưng chẳng bao giờ thấy ông vỗ ngực, ngạo mạn nói lời: “ta là quan đây” mà ông luôn dân giã tự gọi mình là hắn, xưng hô với bạn bè là mày tao: “...Hình như hắn là nhà quê Hình như hắn từ quê ra...” (Gốc)
NGÔ MINHKhông thể đếm là tập thơ đầu tay của cây bút nữ Nguyễn Thị Thái người Huế, sống ở thành phố Buôn Ma Thuột vừa được NXB Thuận Hóa ấn hành. Tôi đã đọc một mạch hết tập thơ với tâm trạng phấn khích. Tập thơ có nhiều bài thơ hay, có nhiều câu thơ và thi ảnh lạ làm phấn chấn người đọc.
MINH KHÔICuối tháng bảy vừa qua, giáo sư ngôn ngữ và văn chương Wayne S.Karlin và nữ phóng viên Valerie, công tác ở một Đài phát thanh thuộc bang Maryland, Mỹ đã đến Huế tìm thăm nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ, để chuyển cho chị bản hợp đồng in ấn và phát hành tập thơ Green Rice (Cốm Non) do cơ quan xuất bản gửi từ Mỹ sang.
FRED MARCHANTCó những vết thương chẳng thể nào lành lặn và có những nỗi đau chẳng bao giờ mất đi. Kinh nghiệm nhân loại khuyên ta không nên “chấp nhận” hay “bỏ đi” hay “vượt lên” chúng. Với một con người mà tâm hồn thương tổn vì đã làm cho người khác khổ đau hay chứng kiến nhiều nỗi đau khổ thì những câu nói như thế hoàn toàn vô nghĩa.
BÍCH THU (Đọc thơ Dòng sông mùa hạ của Hoàng Kim Dung. NXB Hội Nhà văn, 2004)Nhìn vào tác phẩm đã xuất bản của Hoàng Kim Dung, tôi nhận thấy ở người phụ nữ này có sự đan xen giữa công việc nghiên cứu khoa học với sáng tạo thi ca. Ngoài bốn tập thơ và bốn cuốn sách nghiên cứu về nghệ thuật đã in, với tập thơ thứ năm có tựa đề Dòng sông mùa hạ mới ra mắt bạn đọc, đã làm cán cân nghiêng về phía thơ ca.
ĐÔNG HÀVăn hoá và văn học bao giờ cũng có một mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Có thể thấy rằng văn học là một bộ phận của văn hoá, nó chịu sự ảnh hưởng của văn hoá. Khi soi vào một thời kì văn học, người đọc có thể thấy được những khía cạnh về phương diện đời sống văn hoá tinh thần của một thời đại, một giai đoạn của xã hội loài người.
HÀ KHÁNH LINHViết được một câu thơ hay có khi phải chiêm nghiệm cả một đời người, hoàn thành một tập truyện, một tập thơ là sự chắt chiu miệt mài suốt cả quá trình, sau Đại hội nhà văn Việt Nam lần thứ VII Lê Khánh Mai liên tiếp trình làng tập thơ "Đẹp buồn và trong suốt như gương" (Nhà xuất bản Hội Nhà văn) và "Nết" tập truyện ngắn (Nhà xuất bản Đà Nẵng).