LÊ XUÂN MINH THAO
Sông Bạch Đằng, một nhánh sông Kinh Thầy đổ ra biển nằm giữa Quảng Ninh và Hải Phòng - nơi từng diễn ra những trận đánh quân xâm lược bằng đường thủy vang dội, quyết liệt; nơi hội tụ sức mạnh và chiến công dân tộc, chảy nối các thế hệ, thời đại, trở thành biểu tượng tinh túy của non sông: “Trăm con sông đều muốn hóa Bạch Đằng” (Chế Lan Viên).
Ảnh: daophatngaynay.com
Bởi thế, chỉ nói riêng trong lịch sử văn học thời trung đại đã nhiều cây bút tên tuổi như Trần Minh Tông, Trương Hán Siêu, Nguyễn Sưởng, Nguyễn Trãi, Nguyễn Mộng Tuân… đều viết về dòng sông anh hùng này. Nhưng đầu tiên phải nói đến Trương Hán Siêu với bài Phú sông Bạch Đằng; là một áng văn tràn đầy lòng yêu nước, tráng chí chất ngất, cùng tinh thần tự hào dân tộc và hàm chứa một triết lý lịch sử sâu sắc khi nhìn nhận nguyên nhân thành công của dân tộc trong sự nghiệp đánh giặc giữ nước. Trận thủy chiến lịch sử oanh liệt trên sông Bạch Đằng được tái hiện khá rõ nét và hấp dẫn qua lời kể vô cùng nhiệt tình và hào hứng của các bô lão - những nhân chứng lịch sử (nhân vật được tác giả hư cấu):
Đây là chiến địa buổi Trùng Hưng Nhị Thánh bắt Ô Mã,
Cũng là bãi đất xưa, thuở trước, Ngô chúa phá Hoằng Thao.
Những tháng năm oanh liệt chống giặc phương Bắc của người Đại Việt ta cứ hiện dần lên rõ nét và hấp dẫn vô cùng. Tinh thần chiến đấu của quân dân thật oai hùng tương xứng với khí phách đánh giặc giữ nước của dân tộc ta qua hàng thế kỉ. Sông Bạch Đằng, chứng tích hào hùng của lịch sử gắn với hai vị vua anh minh Trần Thánh Tông và Trần Nhân Tông. Đặc biệt dòng sông lịch sử đã gắn liền với những chiến thắng vang dội. Năm 938, Ngô Quyền đánh tan quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng, giết chết tướng giặc Hoằng Thao. Một sự kiện lặp lại trong lịch sử, không hề ngẫu nhiên, bởi sau Ngô Quyền, năm 981, danh tướng Phạm Cự Lạng của vua Lê Hoàn cũng từng tiêu diệt quân Tống xâm lược ở chính nơi đây. Tròn ba trăm năm mươi năm sau (năm 1288), cũng trên dòng sông đó đã diễn ra một trận đánh hủy diệt, đã bắt sống tướng Ô Mã Nhi. “Thuyền bè muôn đội, tinh kì phấp phới,/ Hùng hổ sáu quân, giáo gươm sáng chói,/ Trận đánh được thua chửa phân/ Chiến lũy bắc nam chống đối/ Ánh nhật nguyệt chừ phải mờ/ Bầu trời đất chừ sắp đổi… (Phú sông Bạch Đằng). Đó là sự hùng hậu của thuyền bè chiến đấu “thuyền bè muôn đội”, và những lá cờ “tinh kì” tung bay phấp phới trên đỉnh mỗi con thuyền. Đó là đội quân tinh nhuệ của ta với tinh thần chiến đấu hừng hực cùng ánh sáng chói của những đao gươm “Hùng hổ sáu quân, giáo gươm sáng chói”. Và cuộc chiến đấu diễn ra trong khung cảnh ác liệt nhất khi hai bên giao chiến cân tài ngang sức, chưa phân thắng bại. Khí thế của chiến trường, cùng với khói lửa ngút trời bốc lên cao mãi, che lấp cả mặt trời, mặt trăng, khiến cho bầu trời đất dường như muốn đổi sắc. Không khí chiến trận bừng bừng báo hiệu một cuộc thủy chiến kinh thiên động địa. Thật là một đoạn văn tuyệt kỹ, hừng hực hào khí Đông A, thể hiện ý chí quyết chiến, quyết thắng của quân dân Đại Việt từ xưa chưa từng có bao giờ.
Bên cạnh Trương Hán Siêu, tiếp đến Nguyễn Sưởng, một nhà thơ đời Trần chỉ với bốn câu thơ cũng đã ca ngợi đầy đủ những chiến tích trên sông:
Mồ thù như núi, cỏ cây tươi,
Sóng biển gầm vang, đá ngất trời.
Sự nghiệp Trùng Hưng ai dễ biết,
Nửa do sông núi, nửa do người.
Vẻ đẹp con sông vẫn mãi được ca ngợi bởi sự hùng vĩ, như thể tạo hóa đã sắp sẵn nơi đây thành đất hiểm, dữ dội, linh thiêng, thành chiến địa vùi chôn tham vọng ngông cuồng của bất cứ bọn xâm lược ngoại bang nào, bất kể chúng từ đâu tới. Sông Bạch Đằng trong cái nhìn thi nhân có một địa thế hùng vĩ, oai linh; mang một dáng hình đầy sức sống: cỏ cây, tươi tốt. Nguyễn Sưởng đã ngầm định một logic trong câu thơ thứ nhất này: chiến thắng năm xưa là cội nguồn của cuộc sống tươi đẹp ngày hôm nay, sức sống của hiện tại bắt nguồn từ chiến công trong quá khứ. Nhưng mặc cho thời gian, trời đất biến thiên, Bạch Đằng vẫn giữ khí chất oai hùng của mình: Sóng biển gầm vang, đá ngất trời. Tư thế của Bạch Đằng là tư thế sẵn sàng xung trận đầy thách thức. Trong lòng sông như vẫn tiềm tàng sức mạnh vô song. Ngợi ca địa thế hùng vĩ của dòng sông, cũng là cách Nguyễn Sưởng khẳng định vai trò, yếu tố địa linh trong chiến trận. Vua Trần Minh Tông về sau cũng viết bài thơ “Bạch Đằng giang” với hai câu đầu đã phát thảo được điều ấy:
Núi biếc cao vút, tua tủa như gươm giáo kéo lấy tầng mây
Thuồng luồng nuốt thủy triều, cuộn làn sóng bạc...
Địa thế hiểm trở của Bạch Đằng, có thể làm tiêu vong cuồng vọng của bất kỳ đội quân xâm lược nào, thế nhưng dòng sông cũng phải chứng kiến cảnh hưng phế của từng triều đại. Bài thơ chữ Hán “Quan Hải” (Đóng cửa biển) của Nguyễn Trãi đã gợi nhớ hiện thực đau thương của lịch sử:
Cọc gỗ lớp lớp trồng trước sóng biển
Xích sắt cũng được trầm dưới nước để phong tỏa như thế
Thuyền có bị lật mới biết rằng dân chẳng khác gì nước
Cậy vào địa thế hiểm trở cũng khó bằng mệnh trời
Quan sát thiên nhiên nơi cửa biển sắc nước bát ngát, mà suy tư về lẽ hưng vong của triều đại nhà Hồ ngắn ngủi, đồng thời cảm thán về nỗi đau uất hận của anh hùng thất thế. Việc cũ đã qua, nhưng vật chứng vẫn đang còn đó. Cọc gỗ lớp lớp trồng trước sóng biển/ Xích sắt ngầm dưới sông… như những chứng tích, rưng rưng hiển hiện trước mắt và trong tâm tưởng thi nhân, như thể một nỗi đau xót xa của lịch sử. Nguyễn Trãi thất vọng, buồn chán và còn thấp thỏm một nỗi lo lắng khi nhà Lê rơi vào rối ren. Đó là sự linh cảm đau lòng báo trước thảm họa “Lệ Chi Viên”. Nhưng Nguyễn Trãi đã phả hồn thời đại vào cảnh. Cùng ở cửa biển Thần Phù mà thiên nhiên hiện lên mỗi lúc một khác. Ấy là thiên nhiên cửa biển Thần Phù trong tâm sự nhà thơ: “Quê cũ lòng về theo cánh nhạn/ Lá thu cửa biển chiếc thuyền xiêu/ Kình phun sóng vỗ gầm Nam Bắc/ Giáo dựng non bày biếc trước sau…”. Thơ chữ Hán và chữ Nôm của Nguyễn Trãi hầu hết là những bài ngợi ca thiên nhiên, đất thiêng, người hùng, giải bày tâm sự, buồn vui ngẫm ngợi trước thời thế. Bài thơ “Thuật hứng” của Nguyễn Trãi cũng đã nói lên điều đó qua những câu thơ: “Bui một tấc lòng ưu ái cũ/ Đêm ngày cuồn cuộn nước triều đông”. Ức Trai suốt đời “bui” (chỉ có) một tấm lòng trung hiếu với dân với nước, nó mãnh liệt cuộn trào như sóng thủy triều bể đông. Ngay cả khi ông gánh chịu nỗi oan khiên ghê gớm, những đau đớn tột cùng do triều đình gây ra. Bài thơ “Hải khẩu dạ bạc hữu cảm” cũng có những dòng thơ nói lên nỗi lòng đó: “Từ biệt giang hồ mấy chục năm/ Hôm nay cửa bể buộc thuyền ngâm/ Bãi sông sóng gợn vừng trăng sáng/ Bến nước cây lồng lớp khói râm…”.
Những trận chiến ác liệt trên sông Bạch Đằng, những chiến công làm xoay chuyển trời đất, mở ra vận hội mới cho đất nước. Từ đó, dòng sông đã nghiễm nhiên hóa thành lịch sử, thành điểm tựa vững vàng cho người Đại Việt, ngay cả những phút hiểm nguy nhất. Đó cũng là niềm tự hào để trong thời kỳ ấy, khi Giang Văn Minh đi sứ sang Trung Quốc, bị vua Minh xem thường và ra vế đối: “Đồng trụ chí kim đài dĩ lục” (Cột đồng đến nay rêu đã xanh), ngay lập tức Giang Văn Minh khẳng khái đối đáp sắc bén: “Đằng Giang tự cổ huyết do hồng” (Sông Đằng tự xưa còn đỏ máu). Vế đối của Giang Văn Minh nhắc lại những chiến thắng lừng lẫy trên sông Bạch Đằng, máu giặc xâm lược phương Bắc đến nay chưa hết đỏ. Nhà Minh thấy nhục nhã đã hèn hạ sát hại ông. Chỉ bảy chữ xuất thần này đã hội tụ được cả tinh anh, linh khí non sông nước Việt.
Đặc biệt, vào giữa thế kỉ XVI một nhà thơ, nhà tiên tri số một trong lịch sử Việt Nam, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã để lại cho nhân thế những câu thơ như một lời dự báo qua bài Cự Ngao Đới Sơn:
Nước biếc ngâm núi tiên trong tận đáy,
Con rùa lớn đội được bầu ngọc mà sinh ra.
Ngoi đầu lên, đá có sức vá trời
Bấm chân xuống, sóng cuồn cuộn không dội tiếng vào đất.
Biển Đông vạn dặm đưa về nắm trong bàn tay,
Muôn năm cõi Nam đặt vững cảnh trị bình…
Chính vì đại thắng của Ngô Quyền thuở xưa, khiến cho dòng sông này trở nên gắn bó sâu sắc với Biển Đông. Nhà văn hóa Nguyễn Khắc Mai đã từng phân tích, hai câu thơ đầy tính dự báo chiến lược “Vạn dặm biển Đông phải quay về nắm lấy trong bàn tay. Làm được như vậy, mà phải làm được như vậy - làm chủ được biển Đông, thì muôn đời cõi trời, đất nước Nam này sẽ vững vàng trong cảnh thanh bình thịnh trị lớn lao!” Bài thơ trên đã viết cách đây 500 năm mà bây giờ càng đọc càng thấy rất thời sự, cụ Trạng Trình đã nhìn ra được sự quan trọng của biển Đông đối với vận mệnh của đất nước. Tầm nhìn của cụ đã vượt thời gian và không gian. Hai câu thơ đầy tính dự báo chiến lược của Nguyễn Bỉnh Khiêm càng lay động từ đáy sâu của ý chí, của tâm hồn tâm thức biển đảo của người Việt.
L.X.M.T
(SHSDB26/09-2017)
LÊ GIA NINHNgày 10 tháng 10 năm 1955, Hà Nội, thủ đô của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa bừng lên niềm vui, ngập trong cờ, hoa và nắng thu. Những chàng trai ngày “ra đi đầu không ngoảnh lại”, trải qua cuộc trường chinh ba ngàn ngày trở về trong niềm vui hân hoan và những dòng “nước mắt dành khi gặp mặt” (Nam Hà).
THANH TÙNGChống tham nhũng, đục khoét dân lành không chỉ là công việc của nhà chức trách mà còn ở tất cả mọi người dù ở chế độ xã hội nào. Các thi sĩ không chỉ làm thơ ca ngợi cuộc sống tình yêu, đất nước con người mà còn dùng ngọn bút thông qua nước thi phẩm của mình để lên án, vạch mặt bọn quan tham này.
NGÔ ĐỨC TIẾNTrong lịch sử các nhà khoa bảng ở Việt , ít có gia đình nào cả ba ông cháu, cha con đều đỗ Trạng nguyên. Đó là gia đình Trạng nguyên Hồ Tông Thốc ở Kẻ Cuồi, Tam Công, Thọ Thành, Yên Thành, Nghệ An.
PHẠM XUÂN NGUYÊN1. Trước hết ta phải bàn với nhau về chữ hay, tức thế nào là một tác phẩm hay. Bởi cái hay không bất biến trong không gian và thời gian, nó vận động và biến đổi tùy theo hoàn cảnh, với những tiêu chí cụ thể khác nhau.
TRẦN HUYỀN SÂMRuồng bỏ - Disgrace (1) là một cuốn tiểu thuyết mang phong cách giản dị. Nhưng đó là sự giản dị của một bậc thầy về thể loại roman. Giới lý luận văn học và các chính trị gia phương Tây (2) đã đặt ra những câu hỏi có tính hoài nghi. Điều gì ở cuốn sách có độ trang khiêm tốn này đã mang lại giải Nobel cho Coetzee: Vấn đề kỹ thuật tiểu thuyết, nỗi điếm nhục về nhân cách con người, hay là bi kịch lịch sử hậu Apartheid?
NGUYỄN THÀNHLịch sử phê bình văn học Việt Nam thế kỷ XX đánh dấu bởi nhiều khuynh hướng phê bình hiện đại: phê bình ấn tượng, phê bình phân tâm học, phê bình xã hội học, phê bình mác xít, phê bình thi pháp học...
TRẦN LỘC HÙNG“NỒI HƠI NGUYÊN TỬ” NGĂN NGỪA THẾ CHIẾN THỨ BAChuyện kể rằng sau cuộc thử nghiệm thành công của trái bom nguyên tử đầu tiên vào năm 1949, cha đẻ của nó - Igor Vaxilevich Kurchatov - đã khóc nức nở.
HÀ VĂN THỊNHSố 7 là một con số huyền thoại. Nếu như tính xuất xứ xa nhất, công đầu về việc “tìm ra” số 7, thuộc về người Ai Cập, cách nay ít nhất 5.000 năm. Khi hiểu được rõ ràng việc con sông Nil chia làm 7 nhánh trước lúc đổ ra Địa Trung Hải, người Ai Cập vận “lý” để tin là nó nhất định phải hàm chứa nghĩa bí ẩn nào đó phản ánh cái “tư tưởng” triết lý của Đấng Tạo hóa.
TRẦN VIẾT THIỆNNăm 1987, người ta từ ngạc nhiên, ngỡ ngàng đến sững sờ trước sự trình làng của một cây bút đã vào độ tứ tuần. Tuổi bốn mươi lại là thời kỳ son sắt nhất của cây bút này, nói theo quan niệm của ông: “Đời viết văn cũng giống như đời người đàn bà”.
NGUYỄN TRỌNG TẠO - NGUYỄN ĐỨC TÙNG(Trích)...
TRẦN NGỌC CƯChúng ta thường nghĩ rằng ở trong mỗi tâm hồn Việt Nam đều có một thi sĩ, hay nói thế khác, người Việt Nam sinh ra và lớn lên trong bầu khí văn hoá ra-ngõ-gặp-thi-nhân. Đầu đời là những câu ca dao mẹ hát ru con, cuối đời là câu kinh tiếng kệ, những lời nguyện cầu, đều là thơ cả.
PHẠM TUẤN ANHSau 1975, văn xuôi đóng vai trò chủ đạo trong vận động đổi mới của văn học Việt Nam. Vai trò cách tân của văn xuôi đã được khẳng định đồng thời với vị thế mới của cái hài. Cái hài, với tiếng cười hài hước (humor) phồn thực đã góp phần quan trọng trong quá trình giải thể ý thức “quần thể chính trị”, để văn học thoát khỏi cục diện nhất thể của cái cao cả, sáp tới cuộc sống muôn màu với những giá trị thẩm mĩ đa dạng.
TUẤN ANH“Ở đâu bản năng nghèo nàn, nhân cách cũng nghèo nàn” (Jean Lacroix)
NGUYỄN THẾNhững năm gần đây, vấn đề nghiên cứu về Truyện Kiều đã được các học giả Việt trong và ngoài nước quan tâm. Nhiều cuộc trao đổi, thảo luận về Truyện Kiều được đưa ra trong các cuộc hội thảo chuyên ngành về ngôn ngữ, văn học và trên diễn đàn báo chí, Internet...
NGUYỄN VĂN HẠNHI. Có những quan niệm khác nhau về bản chất, chức năng của văn chương, và có những cách thức khác nhau trong sáng tạo và khám phá văn chương, tuỳ theo hoàn cảnh, mục đích, trình độ, khuynh hướng nhận thức và hoạt động của con người trong lĩnh vực này.
NGUYỄN KHẮC PHÊ(Nhân kỷ niệm 50 năm thành lập Hội Nhà văn Việt Nam 1957-2007)
TÔN ÁI NHÂNThật ra, những điều mà nhà văn, Đại tá Tôn Ái Nhân nêu ra dưới đây không hoàn toàn mới so với “búa rìu dư luận” từng giáng xuống đầu các nhà văn đương đại. Và, bản thân chúng tôi cũng không hoàn toàn đồng tình với tất thảy những sự kiện (kể cả những vấn đề nhạy cảm) mà ông đã “diễn đạt” trong 14 trang bản thảo gửi tới Tòa soạn. Chính vì vậy, chúng tôi đã xin phép được cắt đi gần nửa dung lượng, để “THẤT TRẢM SỚ” NHÀ VĂN đến với bạn đọc một cách nhẹ nhàng hơn. Nhân đây cũng muốn gửi tới tác giả lời xin lỗi chân thành, nếu như lưỡi kéo của Sông Hương hơi “ngọt”.
NUNO JÚDICENhà thơ, nhà phê bình văn học Nuno Júdice (sinh 1949) là người gốc xứ Bồ Đào Nha. Ông có mối quan tâm đặc biệt đối với văn học hiên đại của Bồ Đào Nha và văn học thời Trung cổ của Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha. Là tác giả của khoảng 15 tuyển tập thơ và đã từng được trao tặng nhiều giải thưởng trong nước, ông cũng đồng thời là dịch giả và giảng viên đại học. Từ năm 1996, ông sáng lập và điều hành tạp chí thơ “Tabacaria” ở Lisbonne.
NGUYỄN VĂN DÂNNgười ta cho rằng tiểu thuyết có mầm mống từ thời cổ đại, với cuốn tiểu thuyết Satyricon của nhà văn La Mã Petronius Arbiter (thế kỷ I sau CN), và cuốn tiểu thuyết Biến dạng hay Con lừa vàng cũng của một nhà văn La Mã tên là Apuleius (thế kỷ II sau CN).
HẢI TRUNGSông chảy vào lòng nên Huế rất sâuBản hùng ca của dãy Trường Sơn đã phổ những nốt dịu dàng vào lòng Huế, Hương Giang trở thành một báu vật muôn đời mà tạo hóa đã kịp ban phát cho con người vùng đất này. Chính dòng Hương đã cưu mang vóc dáng và hình hài xứ Huế. Con sông này là lý do để tồn tại một đô thị từ Thuận Hóa đến Phú Xuân và sau này là Kinh đô Huế, hình thành phát triển đã qua 700 năm lịch sử.