Bạch Đằng giang trong thơ truyền thống

09:17 03/11/2017

LÊ XUÂN MINH THAO

Sông Bạch Đằng, một nhánh sông Kinh Thầy đổ ra biển nằm giữa Quảng Ninh và Hải Phòng - nơi từng diễn ra những trận đánh quân xâm lược bằng đường thủy vang dội, quyết liệt; nơi hội tụ sức mạnh và chiến công dân tộc, chảy nối các thế hệ, thời đại, trở thành biểu tượng tinh túy của non sông: “Trăm con sông đều muốn hóa Bạch Đằng” (Chế Lan Viên).

Ảnh: daophatngaynay.com

Bởi thế, chỉ nói riêng trong lịch sử văn học thời trung đại đã nhiều cây bút tên tuổi như Trần Minh Tông, Trương Hán Siêu, Nguyễn Sưởng, Nguyễn Trãi, Nguyễn Mộng Tuân… đều viết về dòng sông anh hùng này. Nhưng đầu tiên phải nói đến Trương Hán Siêu với bài Phú sông Bạch Đằng; là một áng văn tràn đầy lòng yêu nước, tráng chí chất ngất, cùng tinh thần tự hào dân tộc và hàm chứa một triết lý lịch sử sâu sắc khi nhìn nhận nguyên nhân thành công của dân tộc trong sự nghiệp đánh giặc giữ nước. Trận thủy chiến lịch sử oanh liệt trên sông Bạch Đằng được tái hiện khá rõ nét và hấp dẫn qua lời kể vô cùng nhiệt tình và hào hứng của các bô lão - những nhân chứng lịch sử (nhân vật được tác giả hư cấu):

Đây là chiến địa buổi Trùng Hưng Nhị Thánh bắt Ô Mã,
Cũng là bãi đất xưa, thuở trước, Ngô chúa phá Hoằng Thao.

Những tháng năm oanh liệt chống giặc phương Bắc của người Đại Việt ta cứ hiện dần lên rõ nét và hấp dẫn vô cùng. Tinh thần chiến đấu của quân dân thật oai hùng tương xứng với khí phách đánh giặc giữ nước của dân tộc ta qua hàng thế kỉ. Sông Bạch Đằng, chứng tích hào hùng của lịch sử gắn với hai vị vua anh minh Trần Thánh Tông và Trần Nhân Tông. Đặc biệt dòng sông lịch sử đã gắn liền với những chiến thắng vang dội. Năm 938, Ngô Quyền đánh tan quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng, giết chết tướng giặc Hoằng Thao. Một sự kiện lặp lại trong lịch sử, không hề ngẫu nhiên, bởi sau Ngô Quyền, năm 981, danh tướng Phạm Cự Lạng của vua Lê Hoàn cũng từng tiêu diệt quân Tống xâm lược ở chính nơi đây. Tròn ba trăm năm mươi năm sau (năm 1288), cũng trên dòng sông đó đã diễn ra một trận đánh hủy diệt, đã bắt sống tướng Ô Mã Nhi. “Thuyền bè muôn đội, tinh kì phấp phới,/ Hùng hổ sáu quân, giáo gươm sáng chói,/ Trận đánh được thua chửa phân/ Chiến lũy bắc nam chống đối/ Ánh nhật nguyệt chừ phải mờ/ Bầu trời đất chừ sắp đổi… (Phú sông Bạch Đằng). Đó là sự hùng hậu của thuyền bè chiến đấu “thuyền bè muôn đội”, và những lá cờ “tinh kì” tung bay phấp phới trên đỉnh mỗi con thuyền. Đó là đội quân tinh nhuệ của ta với tinh thần chiến đấu hừng hực cùng ánh sáng chói của những đao gươm “Hùng hổ sáu quân, giáo gươm sáng chói”. Và cuộc chiến đấu diễn ra trong khung cảnh ác liệt nhất khi hai bên giao chiến cân tài ngang sức, chưa phân thắng bại. Khí thế của chiến trường, cùng với khói lửa ngút trời bốc lên cao mãi, che lấp cả mặt trời, mặt trăng, khiến cho bầu trời đất dường như muốn đổi sắc. Không khí chiến trận bừng bừng báo hiệu một cuộc thủy chiến kinh thiên động địa. Thật là một đoạn văn tuyệt kỹ, hừng hực hào khí Đông A, thể hiện ý chí quyết chiến, quyết thắng của quân dân Đại Việt từ xưa chưa từng có bao giờ.

Bên cạnh Trương Hán Siêu, tiếp đến Nguyễn Sưởng, một nhà thơ đời Trần chỉ với bốn câu thơ cũng đã ca ngợi đầy đủ những chiến tích trên sông:

Mồ thù như núi, cỏ cây tươi,
Sóng biển gầm vang, đá ngất trời.
Sự nghiệp Trùng Hưng ai dễ biết,
Nửa do sông núi, nửa do người.


Vẻ đẹp con sông vẫn mãi được ca ngợi bởi sự hùng vĩ, như thể tạo hóa đã sắp sẵn nơi đây thành đất hiểm, dữ dội, linh thiêng, thành chiến địa vùi chôn tham vọng ngông cuồng của bất cứ bọn xâm lược ngoại bang nào, bất kể chúng từ đâu tới. Sông Bạch Đằng trong cái nhìn thi nhân có một địa thế hùng vĩ, oai linh; mang một dáng hình đầy sức sống: cỏ cây, tươi tốt. Nguyễn Sưởng đã ngầm định một logic trong câu thơ thứ nhất này: chiến thắng năm xưa là cội nguồn của cuộc sống tươi đẹp ngày hôm nay, sức sống của hiện tại bắt nguồn từ chiến công trong quá khứ. Nhưng mặc cho thời gian, trời đất biến thiên, Bạch Đằng vẫn giữ khí chất oai hùng của mình: Sóng biển gầm vang, đá ngất trời. Tư thế của Bạch Đằng là tư thế sẵn sàng xung trận đầy thách thức. Trong lòng sông như vẫn tiềm tàng sức mạnh vô song. Ngợi ca địa thế hùng vĩ của dòng sông, cũng là cách Nguyễn Sưởng khẳng định vai trò, yếu tố địa linh trong chiến trận. Vua Trần Minh Tông về sau cũng viết bài thơ “Bạch Đằng giang” với hai câu đầu đã phát thảo được điều ấy:

Núi biếc cao vút, tua tủa như gươm giáo kéo lấy tầng mây
Thuồng luồng nuốt thủy triều, cuộn làn sóng bạc...

Địa thế hiểm trở của Bạch Đằng, có thể làm tiêu vong cuồng vọng của bất kỳ đội quân xâm lược nào, thế nhưng dòng sông cũng phải chứng kiến cảnh hưng phế của từng triều đại. Bài thơ chữ Hán “Quan Hải” (Đóng cửa biển) của Nguyễn Trãi đã gợi nhớ hiện thực đau thương của lịch sử:

Cọc gỗ lớp lớp trồng trước sóng biển
Xích sắt cũng được trầm dưới nước để phong tỏa như thế
Thuyền có bị lật mới biết rằng dân chẳng khác gì nước
Cậy vào địa thế hiểm trở cũng khó bằng mệnh trời

Quan sát thiên nhiên nơi cửa biển sắc nước bát ngát, mà suy tư về lẽ hưng vong của triều đại nhà Hồ ngắn ngủi, đồng thời cảm thán về nỗi đau uất hận của anh hùng thất thế. Việc cũ đã qua, nhưng vật chứng vẫn đang còn đó. Cọc gỗ lớp lớp trồng trước sóng biển/ Xích sắt ngầm dưới sông… như những chứng tích, rưng rưng hiển hiện trước mắt và trong tâm tưởng thi nhân, như thể một nỗi đau xót xa của lịch sử. Nguyễn Trãi thất vọng, buồn chán và còn thấp thỏm một nỗi lo lắng khi nhà Lê rơi vào rối ren. Đó là sự linh cảm đau lòng báo trước thảm họa “Lệ Chi Viên”. Nhưng Nguyễn Trãi đã phả hồn thời đại vào cảnh. Cùng ở cửa biển Thần Phù mà thiên nhiên hiện lên mỗi lúc một khác. Ấy là thiên nhiên cửa biển Thần Phù trong tâm sự nhà thơ: “Quê cũ lòng về theo cánh nhạn/ Lá thu cửa biển chiếc thuyền xiêu/ Kình phun sóng vỗ gầm Nam Bắc/ Giáo dựng non bày biếc trước sau…”. Thơ chữ Hán và chữ Nôm của Nguyễn Trãi hầu hết là những bài ngợi ca thiên nhiên, đất thiêng, người hùng, giải bày tâm sự, buồn vui ngẫm ngợi trước thời thế. Bài thơ “Thuật hứng” của Nguyễn Trãi cũng đã nói lên điều đó qua những câu thơ: “Bui một tấc lòng ưu ái cũ/ Đêm ngày cuồn cuộn nước triều đông”. Ức Trai suốt đời “bui” (chỉ có) một tấm lòng trung hiếu với dân với nước, nó mãnh liệt cuộn trào như sóng thủy triều bể đông. Ngay cả khi ông gánh chịu nỗi oan khiên ghê gớm, những đau đớn tột cùng do triều đình gây ra. Bài thơ “Hải khẩu dạ bạc hữu cảm” cũng có những dòng thơ nói lên nỗi lòng đó: “Từ biệt giang hồ mấy chục năm/ Hôm nay cửa bể buộc thuyền ngâm/ Bãi sông sóng gợn vừng trăng sáng/ Bến nước cây lồng lớp khói râm…”.

Những trận chiến ác liệt trên sông Bạch Đằng, những chiến công làm xoay chuyển trời đất, mở ra vận hội mới cho đất nước. Từ đó, dòng sông đã nghiễm nhiên hóa thành lịch sử, thành điểm tựa vững vàng cho người Đại Việt, ngay cả những phút hiểm nguy nhất. Đó cũng là niềm tự hào để trong thời kỳ ấy, khi Giang Văn Minh đi sứ sang Trung Quốc, bị vua Minh xem thường và ra vế đối: “Đồng trụ chí kim đài dĩ lục” (Cột đồng đến nay rêu đã xanh), ngay lập tức Giang Văn Minh khẳng khái đối đáp sắc bén: “Đằng Giang tự cổ huyết do hồng” (Sông Đằng tự xưa còn đỏ máu). Vế đối của Giang Văn Minh nhắc lại những chiến thắng lừng lẫy trên sông Bạch Đằng, máu giặc xâm lược phương Bắc đến nay chưa hết đỏ. Nhà Minh thấy nhục nhã đã hèn hạ sát hại ông. Chỉ bảy chữ xuất thần này đã hội tụ được cả tinh anh, linh khí non sông nước Việt.

Đặc biệt, vào giữa thế kỉ XVI một nhà thơ, nhà tiên tri số một trong lịch sử Việt Nam, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã để lại cho nhân thế những câu thơ như một lời dự báo qua bài Cự Ngao Đới Sơn:

Nước biếc ngâm núi tiên trong tận đáy,
Con rùa lớn đội được bầu ngọc mà sinh ra.
Ngoi đầu lên, đá có sức vá trời
Bấm chân xuống, sóng cuồn cuộn không dội tiếng vào đất.
Biển Đông vạn dặm đưa về nắm trong bàn tay,
Muôn năm cõi Nam đặt vững cảnh trị bình…


Chính vì đại thắng của Ngô Quyền thuở xưa, khiến cho dòng sông này trở nên gắn bó sâu sắc với Biển Đông. Nhà văn hóa Nguyễn Khắc Mai đã từng phân tích, hai câu thơ đầy tính dự báo chiến lược “Vạn dặm biển Đông phải quay về nắm lấy trong bàn tay. Làm được như vậy, mà phải làm được như vậy - làm chủ được biển Đông, thì muôn đời cõi trời, đất nước Nam này sẽ vững vàng trong cảnh thanh bình thịnh trị lớn lao!” Bài thơ trên đã viết cách đây 500 năm mà bây giờ càng đọc càng thấy rất thời sự, cụ Trạng Trình đã nhìn ra được sự quan trọng của biển Đông đối với vận mệnh của đất nước. Tầm nhìn của cụ đã vượt thời gian và không gian. Hai câu thơ đầy tính dự báo chiến lược của Nguyễn Bỉnh Khiêm càng lay động từ đáy sâu của ý chí, của tâm hồn tâm thức biển đảo của người Việt.

L.X.M.T  
(SHSDB26/09-2017)




 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • LGT: Bài viết tóm tắt những yếu tố và tiến trình tạo thành thơ Tân hình thức Việt, qua sự đối chiếu giữa các thang giá trị, thơ Việt và thơ Anh Mỹ. Vì vậy, tuy không thể tránh những từ chuyên môn về luật tắc thơ, nhưng chúng tôi cố gắng viết rõ ràng từng chi tiết, để người đọc dễ nắm bắt. Thơ Tân hình thức Việt đơn giản, dễ hiểu, nhờ sự tham khảo những nguồn thơ khó, điều này cũng tự nhiên, như Pop Art (bình dân) phản ứng lại hội họa Trừu tượng Biểu hiện (cao cấp). “Nghĩ về cách làm thơ”, cần đọc chậm rãi, trầm tư, và nhiều lần, nếu người đọc thật sự muốn tìm hiểu dòng thơ này.

  • ĐẶNG ANH ĐÀO

    Có thể nói rằng Những thiên đường mù là một câu chuyện dệt bằng những mảnh ký ức trên nền hiện tại.

  • NGUYỄN VĂN THUẤN

    Diễn ngôn tâm thần phân lập (discours schizophrénique) là thuật ngữ do hai triết gia và nhà nghiên cứu văn học người Pháp là G.Deleuze và F.Guattari đề xuất trong công trình viết năm 1972, Chủ nghĩa tư bản và bệnh tâm thần phân lập: Chống Oedipe (Capitalisme et Schizophrénie I. L’Anti-Œdipe).

  • ĐỖ QUYÊN   

    “Hãy đánh chết nó đi, nhà phê bình văn học - cái thằng khốn!”
                                                (J.W. Goethe)

  • Từ năm 1972 cho tới nay đã có nhiều học giả, qua tập Yên thiều bút lục mới sưu tầm và vài nguồn tư liệu khác, đưa ra nhận định: Câu đối “Thập tải luân giao cầu cổ kiếm/ Nhất sinh đê thủ bái mai hoa” là của tri phủ Ngải Tuấn Mỹ người Hoa tặng phó sứ Nguyễn Tư Giản khi sứ bộ Việt Nam ghé lại địa phương này chứ không phải của Cao Bá Quát.

  • PHẠM TẤN XUÂN CAO

    Tính khả hữu từ sự xuất hiện của đối tượng trong các chiểu sự là hình thái của đối tượng.(1) (Wittgenstein, Tractatus, 2.0141)  
    Khi một điều gì đó trở nên đúng trong hư cấu thì ở đó không còn sự phân biệt khác nhau về mặt hữu thể học và nhận thức luận.”(2) (Gregory Currie) 

  • PHAN TRỌNG HOÀNG LINH

    Hài hước: cơn say của tính tương đối nhân thế, niềm vui thú kỳ lạ nảy sinh từ niềm tin chắc rằng chẳng có sự tin chắc nào cả. (Milan Kundera)

  • NGUYỄN THANH TÂM

    Đạo đức (ethic, morality), luân lý (moral), theo Edgar Morin, hai khái niệm này không tách rời nhau, đôi khi chồng lấn và có thể sử dụng bất cứ từ nào(1).

  • NGUYỄN QUANG HUY

    - Để tìm hiểu không gian xã hội của những người sản xuất văn hóa, cần phải tư duy theo mô hình quan hệ.
    - Sự việc, hiện tượng bản thân nó không quan trọng, mà chính quan hệ giữa chúng mới có ý nghĩa.
                            (Pierre Bourdieu)

  • KHẾ IÊM

    Viết hy vọng có thể giúp người đọc tự đánh giá thơ, theo đúng tiêu chuẩn của dòng thơ này, và những nhà thơ Tân hình thức Việt, trong việc thực hành, có thể điều chỉnh những sáng tác của mình, đi xa hơn, và làm nổi bật sự khác biệt giữa các thể loại thơ, tự do và vần điệu.

  • PHẠM THỊ HOÀI

    Tôi không nói tới việc viết văn thuần túy vì mục đích kiếm sống, dù đấy là điều rất đáng bàn, và hơn nữa, sự nghèo túng của những người cầm bút ở xứ sở này đã trở thành truyền thống; cũng không nói đến việc viết văn để kiếm chác một vài thứ khác ít đáng bàn hơn, như danh vị hay thứ đặc quyền xã hội nào đó.

  • LỮ PHƯƠNG

    Sau khi Sông Hương 36, 1989 xuất hiện, cũng đã xuất hiện một số bài báo phản ứng, trong đó có hai bài nhắc đến bài viết của tôi (1) - bài ký tên Trần Phú Lộc: “Ðôi lời nhân đọc Sông Hương số 36”, Văn nghệ số 21, 27-5-1989 và bài ký tên Văn Nguyên: “Báo động thật hay giả”, Nhân dân 20.5.1989.

  • MAI ANH TUẤN

    Cụm từ “văn chương Nguyễn Huy Thiệp” không chỉ được tạo ra bởi và thuộc về giai đoạn văn học Đổi mới (1986) mà giờ đây, rộng rãi và phức tạp hơn rất nhiều, đã có mặt trong nhiều nghiên cứu Việt Nam (Việt học) đương đại, từ văn hóa văn chương đến chính trị - xã hội.

  • ĐỖ ĐỨC HIỂU

    14 tháng bảy 1789, nhân dân Pari chiếm và phá ngục Bastille, biểu trưng của chế độ phong kiến đã tồn tại ở Pháp hàng chục thế kỷ. Nó là một "đại hồng thủy" cuốn sạch một thế giới cũ và mở đầu một thế giới mới ở Pháp, ở Châu Âu và vang dội trên toàn thế giới.

  • TRẦN HOÀI ANH

    1.
    Nói đến triết học phương Tây, không thể không nói đến chủ nghĩa hiện sinh, một trào lưu tư tưởng chủ yếu trong trào lưu chủ nghĩa nhân bản phi duy lý của triết học phương Tây hiện đại.

  • JOSEPH EPSTEIN

    Có một số thứ ở đó sự tầm thường là không thể được dung thứ: thơ, nhạc, họa, hùng biện.
                                    (La Bruyère).

  • LÊ THÀNH NGHỊ

    Văn học nghệ thuật có sứ mệnh phản ảnh sự thật cuộc sống qua đó rút ra bài học ý nghĩa đối với con người. Nguyên lý này không có gì mới mẻ. Lịch sử văn học nghệ thuật cũng chứng minh rằng, gắn bó với hiện thực, phản ảnh chân thực hiện thực là thước đo giá trị của tác phẩm. Điều này cũng không còn xa lạ với mọi người.

  • NGUYỄN THỊ TUYẾT

    A work of art was a form expressive of human feeling,
    Created for our aesthetic perception through sense or imagination.

    - S. Langer(1)
    I paint objects as I think them, not as I see them.
    - Pablo Picasso(2)