TRỊNH SƠN
Có những người, hiếm thôi, khi đã gặp tôi thầm ước giá như mình được gặp sớm hơn. Như một pho sách hay thường chậm ra đời.
Nhà văn Hồ Anh Thái - Ảnh: internet
Nói là chậm, vì khi sách ấy chưa ra đời thì chẳng ai biết nó sẽ khởi sinh ra làm sao, khởi sự thế nào và hoàn tất bao giờ. Không cứ ai cũng dễ gần, cũng như đâu phải pho sách hay nào cũng ngọt ngào trôi chảy vào dòng tâm tưởng độc giả. Có khi, phải vật lộn với từng cú huých của họ, thậm chí, chịu đựng chính sức chịu đựng của họ. Thấm. Và bất khả kháng, muốn hay không, không thể tách rời hai phần cuộc gặp gỡ giữa ánh mắt ta và chân dung họ.
Hai trường hợp đơn cử cho mơ ước mãnh liệt kỳ lạ của tôi, một là Alfred de Musset của thế kỷ XIX. Người kia, là Hồ Anh Thái bây giờ. Dấu gạch nối thời gian giữa tôi với hai tên tuổi xa vời này có vẻ khác nhau, nhưng sắc màu thì không phân biệt được. Tươi rói hạnh ngộ. Sắc nét luận lý. Và, đầm ấm tình người.
Chính tôi cũng không hiểu, căn nguyên nào khiến mình mê mẩn dòng thơ mẫn cảm, dường như yếu ớt nhưng chẳng bao giờ cong cớn, lắt lẻo, gãy đổ của chàng thi sĩ đa tình nước Pháp? Và, tại sao tôi có thể yêu được tiếng chuông bản nguyện thanh thanh vọng vào tâm tưởng từ một nhà văn vốn dĩ khoác áo công chức, hẳn là nghiêm ngắn và lịch lãm kiểu Bắc?
Ba cuộc gặp gỡ Hồ Anh Thái ưu ái dành cho tôi đều diễn ra trọn vẹn trong bầu trời của một nhà văn đã công thành danh toại với một người đọc vô danh ưa phản biện.
*
Cuộc thứ nhất, Cõi người rung chuông tận thế. Trước đó, tôi có chiêm ngưỡng ông từ một vài truyện ngắn in rải rác trên báo chí và trong tuyển tập nào đó. Hầu như, ấn tượng. Nhưng, chưa rõ cái ấn tượng nó hình thù ra làm sao. Ừ, thì triết lý nhân sinh. Gã đồ tể, chị quét rác còn có nhân sinh triết lý nữa cơ, huống chi một nhà văn. Ừ, thì hóm hỉnh, sắc bén. Chữ ra chữ, đặc biệt thứ ngôn ngữ ông dùng biêng biếc tiếng Việt, ngay cả những thuật ngữ rất Tây, rất Thiền cũng man mác hương vị truyền thống. Truyền thống đúng nghĩa. Một thứ truyền thống tự thân, không cân đai mũ mão phong vương chia đất. Rành mạch mà vẫn kỳ ảo. Diễm ảo thì đúng hơn. Từ những truyện viết nơi xứ người, Mỹ cho đến Ấn, Âu, Đông sang Tây. Tả dân Mỹ bằng ngữ nghĩa cứ như hai miền Nam Bắc nước Mỹ thời nội chiến. Nghĩa là, đấu tranh và hòa hoãn - hòa bình chứ không nhượng bộ. Hồ Anh Thái làm nên một diễn văn Gettysburg bằng tiếng Việt, về sự khẩn thiết giữ gìn và phát huy tiếng Việt.
Nhiều nhà phê bình đã lý giải, chỉ có thể là tư tưởng mới làm nên một Hồ Anh Thái vững chãi như vậy. Giữa cơn bão táp ngoại lai và tự hủy của tiếng Việt thời kỳ đổi mới rồi hội nhập. Nhân vật, dù là một cô gái Mỹ, một nhà văn Hàn hay một vị sư Nepal - họ phát ngôn tư tưởng Việt Nam, bằng tiếng Việt Nam, tự nhiên đến độ hồn nhiên, chớ hề ngượng ngạo. Tôi bỏ được mấy phần cái ba lô Tây An nam xuống sông Tô Lịch từ những bài học nghiêm cẩn của Hồ Anh Thái. Ông dạy tôi tự trọng với tiếng nước mình, khi ông đang ở phương trời xa xứ lạ, nói ngoại ngữ, đọc sách người, kể chuyện đời.
Cõi người rung chuông tận thế đến sớm hơn nhiều, nhưng phải rất lâu tôi mới mon men đến gần. Hành tung của tác giả rành rành ra đấy, nhân vật lộ diện mồn một ra đấy, nhưng không phải qua tầm nhìn của một đôi mắt “đất sét”. Sain Pol Roux cho rằng: “Tạo hóa không cấm đoán ai muốn đi sâu vào những bí mật của nó vì tạo hóa chứa đầy những ‘khuyến cáo’ và ‘mật ước’ chỉ dành riêng cho những ai biết nhìn chúng ngoài đôi mắt bằng ‘đất sét’” (Sain Pol Roux, tác giả: Th. Briant). Nếu ai nói Hồ Anh Thái đang diễn tả Phật pháp là người đó chưa thực sự bước vào địa hạt “cõi người” đầy rung động tư tưởng, bĩ và trị bĩ mà nhà văn đã mở sẵn cửa đón nhận hết thảy kẻ nào muốn vào. Trong đó, nghệ thuật ảo diệu không bởi chi tiết, mà tinh túy chắt lọc từ tất cả chi tiết trình bày trên, trong và cả bên ngoài biên giới tác phẩm. Nghệ thuật không cơi nới, trái lại, mở toang thêm trăm phương ngàn hướng: nghệ thuật tự tâm, nghệ thuật diễn hành, nghệ thuật trì trí, nghệ thuật uyên nguyên… Tận thế, trong giới hạn nghĩ suy của tôi sau khi mò mẫm hỉ nộ ái ố trong từng tích tắc nhân vật và cốt truyện, là sự kiến tạo. Cỏ mọc mầm sau mưa. Hoa đào rơi trên máu kiếm. Hồ Anh Thái không nhận vai, nhưng đã và sẽ được người đời mặc định khi thì là samurai dũng mãnh can trường, lúc lại là thiền sư ung dung uyên áo.
Nghiên cứu Đông phương, nhưng dường như luận lý sách vở mềm mại theo nước theo gió Á châu không giữ nổi cả câu hỏi và câu trả lời Hồ Anh Thái đặt ra trong cõi người xúc xắc bĩ cực thới lai. Tôi có cảm giác, ông đã vẽ cây cầu nối hai bờ Đông Tây, tiếp bước và hoàn thiện công trình dang dở của những người đi trước.
Cây cầu ấy, bắc qua chén trà chát. Chát mà thơm, mà quyến rũ, mà thanh bạch - vượt át vị nồng cay tức tưởi của rượu mê.
Cõi người rung chuông tận thế, tích hợp đồng thời mâu thuẫn dữ dội lẫn dung hòa êm ái của Khổng, Lão, Mặc. Trước đó, trong cuộc lưu vong vô kỳ hạn, E. M. Remarque đã gắng kết nối Jesus, F. Nietzsche và S. Freud, nhưng có vẻ văn hào đã tự làm sụp đổ cấu trúc khát vọng (hy vọng và tuyệt vọng) của mình trong sự sụp đổ của nền văn minh Âu châu. Tôi tự tin nói theo giọng điệu của G. Gordon: Hãy để triết thuyết lụi tàn.
Cuộc gặp gỡ thứ hai, ở giữa. Trung tâm, không phải là thứ một mối quan hệ cần và đủ. Hoặc thiên bên này, hoặc vị bên kia. Dấu gạch nối chỉ là khoảng không, nếu mỗi đối tượng không hút (đẩy) đối phương bằng trường lực của chính mình.
Ảnh hưởng rõ rệt nhất của con người Hồ Anh Thái đến tôi, là sự mẫn cán và tinh thần trách nhiệm không tưởng tượng nổi. Ông công tác lúc nào? Ông nghiên cứu lúc nào? Ông sáng tác lúc nào? Vỏn vẹn hai mươi bốn tiếng đồng hồ mỗi ngày, ông điều chỉnh, phân định ra sao để có thể trọn vẹn và hơn cả trọn vẹn - ngoài ra, còn thai nghén ít nhiều thời gian cho việc xã hội, cho gia đình, cho lớp trẻ, cho nhân tình thế thái?
Lá thư đầu tiên, chỉ là cầu may. Đã gởi hàng trăm tiếng động vào thế giới nhà văn, những con người tưởng chừng nhạy cảm hơn cả, bặt thiệp hơn cả, minh mẫn hơn cả - đặc tính của nghệ sĩ vẫn gắn liền với những mỹ từ như thế. Nhưng, hầu như tôi chỉ nghe tiếng vọng lại của chính mình từ vách đá vô cảm. Đá thế hệ, đá đa đề, đá lợi lộc, đá bè cánh… Trong ngày, tôi nhận được hồi âm của nhà văn Hồ Anh Thái. Và cứ thế. Có ngày, thư đi tin lại nhiều lần.
Cặn kẽ và tỉ mỉ. Thẳng thắn và bộc trực. Ông dạy cho tôi cách làm văn. Kiêu hãnh của một gã nhà thơ múa lửa với ngôn ngữ của tôi như quả bóng nổ dưới sức nóng mặt trời. Ông dạy tôi bằng bài học của tâm. Tâm nhà văn. Tâm nhà báo. Tâm phê bình. Tâm biên tập. Tâm tác giả và tâm độc giả.
Sửa một câu một chữ, ông đều tô đỏ nguyên văn và giải thích tại sao nên sửa và phải sửa? Sửa thế nào? Sửa làm sao cho văn chương ấy vẫn theo giọng điệu của đứa học trò biết sai chứ không phải giọng điệu lão luyện của một bậc thầy. Chợt nhớ, có vị biên tập nọ, bài thơ bảy nhân tám năm mươi sáu chữ của cộng tác viên thì sửa mất năm mươi chữ. Khi in ra, tác giả chỉ còn cái tên mà không thể nhận ra tác phẩm mặc quần áo mới của ai nữa.
Thi thoảng, gặp bức ảnh đẹp, bài viết hay, bản nhạc tuyệt - ông gởi cho tôi. Có lẽ không chỉ gởi cho mình tôi, mà còn cho nhiều người khác. Những điều tốt tươi qua mắt mình, ông không định độc quyền chiếm lấy và giữ lấy, muốn chia sẻ với hết thảy những ai có thể chia sẻ.
Những ngày không thư, tôi đoán ông đang ở trên đỉnh núi nào đó, trong vùng thôn quê hẻo lánh nào đó. Tắt điện thoại, internet và mọi thứ sóng nhân tạo. Chỉ còn lại sóng tự nhiên: sợi dây liên kết giữa tâm hồn con người với trời đất. Chữ sẽ đến, nghĩa sẽ đến như ánh sáng thuở hồng hoang. Không ám thị, không lấm láp tô vẽ. Một tác phẩm mới ra đời. Trong tận cùng nỗi cô đơn nghĩa đen, để đi đến tận cùng sự ấm áp và văn minh cõi người nghĩa bóng. Sáng tạo. Vâng, “sáng tạo trong cô đơn” đã trở nên một thuật ngữ máy móc và giả tạo được lặp lại, lạm dụng quá nhiều. Bạn không thể cô đơn, dù chỉ ở một mình với ghen tuông, uất ức, tỵ hiềm, than thở, mặc cảm, buồn vui ế ẩm. Bạn chỉ có thể cô đơn trong thức ngộ. Trên nền tuyết trắng, một mầm cỏ xanh um lên. Lẻ loi, đơn độc nhưng bền bỉ và mãnh liệt. Đó chính là sáng tạo. Thế giới sáng tạo bạn và bạn sáng tạo thế giới. Bạn sáng tạo chính bạn. Cuộc sáng tạo ấy là tác phẩm.
Chàng thanh niên thất tình “con sáo mái sặc sỡ” George Sand đếm nỗi cô đơn theo từng viên gạch lát hè phố Paris hoa lệ, làm nên ánh tình thơ để đời. Hồ Anh Thái đếm nỗi cô đơn trên số đếm làng mạc, xứ sở, đỉnh núi, con người ông trải qua từng ngày. Đức Phật, nàng Savitri và tôi - có lẽ đã ra đời trong cõi hoang sơ dịu dàng và nồng nàn như thế. Âm lọc âm, ảnh chọn ảnh. Lão nhà văn Hàn Quốc ngủ gật trước cử tọa như thế.
Truyện ngắn Tựa vào gốc anh đào mà ngủ, Hồ Anh Thái kể chuyện một nhà văn lão thành xứ kim chi, “không bao giờ nhận lời tiếp xúc với độc giả”, “khi người đọc phá vỡ quy ước của riêng ông, người đọc xuất hiện hữu hình, ấy là khi nhà văn thất vọng”, có câu thoại: “Cuộc đổ bộ của ta chỉ dừng ở chân núi, còn con, cuộc đổ bộ của con là phải ở trên kia, trên đỉnh núi ấy”. Tôi tin, Hồ Anh Thái cũng đang lặp lại sự ngủ ấy, cuộc đổ bộ ấy với chính mình và thế hệ tiếp nối.
Người nào dám nghĩ rằng mình, thân xác và tâm hồn, chỉ là một cái khuôn, một cái vỏ, một con búp bê rỗng ruột? Để rót đời vào. Để làm đầy chính mình. Nội tâm nhà văn là nơi diễn ra cuộc gặp gỡ thứ ba. Ông gặp lại ông.
Không Diễn, không Sắp đặt, Không hơn gì nhau câu nói, Buông bỏ. “Bàn tay ta nắm được bao nhiêu chiếc lá, thì chỉ bấy nhiêu là đủ cho mình”. “Cái gì cần thiết mà đến một lúc nào đó cũng chẳng giữ được nguyên lành, hãy ý thức được quy luật và hãy buông. Người mà ta yêu mến, một ngày nào đó cũng ra đi, ta chẳng giữ được, hãy biết trước như vậy mà thanh thản, không níu giữ khóc lóc”.
Đi và cứ đi, hành trình của Sách mang theo. Một cuộc “tự thú”, bắt đầu bằng thế giới chân dung nhà văn bạn bè góc cạnh, sắc nét từ bên trong chứ không hề xanh đỏ tím vàng cầu vồng mạo nhận. Họ trở thành nhân vật của tôi - mỗi chân dung là một tấm gương, hơn hết, muốn hay không, tác giả soi mình vào. Dậy lên hương thơm của tấm gương, nếu có. Chứ không vẽ vời, không nặn tượng. Chân dung văn học là thể loại khó. Trước tiên, đối tượng có thật chứ không phải một nhân vật hư cấu thế nào cũng được. Nhưng, cứ kể lể xoành xoạch thì thôi văn vẻ gì nữa, đem máy ảnh tới mà chụp cái rẹt cho xong. Hồ Anh Thái ít viết chân dung văn học, nhưng ông là một trong số ít tác giả viết hay trong thể loại hương hoa này.
Chân dung của chính mình, là chân dung khó viết nhất. Cần sự can đảm, tự trọng và kiêu hãnh. Cần va chạm dữ dội và lắng đọng tuyệt đối. Cần ràng buộc với mọi hoàn cảnh phải có và cắt đứt, kể cả mối liên hệ cuối cùng. “May quá, mình đã qua tuổi sợ bóng tối và sợ ma” (Sợ độ cao). Thể loại tiểu luận và tản văn, ông gặp lại ông rõ rệt nhất. Ông không kể cho ai nghe cuộc gặp gỡ đầy thịnh nộ giấu sau vẻ giễu cợt, hóm hỉnh ấy. Tôi chỉ khéo tưởng tượng.
*
Tôi vẫn còn ước mình có duyên gặp Hồ Anh Thái sớm hơn. Tác giả Lời bộc bạch của đứa con thời đại, cũng thế. Cho đến nay, ông và tôi chưa bao giờ chạm mặt. Có lẽ, hình hài tai mắt mũi miệng chỉ cần thiết cho những người xem nó là tất cả.
Núi Dinh, Bà Rịa 20-25/11/2013
T.S
(SH302/04-14)
THÁI KIM LAN Tưởng niệm Cố Hoà Thượng Thích Thiện Châu Vừa qua tôi lục giấy tờ cũ, tình cờ thấy một trang giấy có thủ bút của Thầy Thích Thiện Châu (cố Hoà Thượng Thích Thiện Châu), một bài thơ. Cảm động quá. Bài thơ này Thầy viết sau khi khoá Thiền mùa hè năm 1990 chấm dứt và là lần cuối cùng Thầy sang giảng khoá Thiền tại Muenchen.
THI THOẠI Nhân 90 năm ngày mất Phan Kế Bính (1921– 2011) Phan Kế Bính hiệu là Bưu Văn, bút danh Liên Hồ Tử, người làng Thụy Khuê (làng Bưởi), huyện Hoàng Long, nay thuộc quận Tây Hồ, Hà Nội, thọ 46 tuổi (1875 - 1921).
MIÊN DI Không tìm thấy, và cũng đừng nên tìm ở tập thơ này một điều gì đã từng được nhiều người đồng vọng trước đây. Nó là những mảnh tiểu tự sự, những cái nhìn cô lẻ, biệt dị từ đáy thân phận và đôi khi tàn nhẫn.
HOÀNG DIỆP LẠC (Đọc tập “Thơ tự chọn” của Nguyên Quân, Nhà xuất bản Văn học, 8-2011)
ĐOÀN ÁNH DƯƠNG“Buổi mai hôm ấy, một buổi mai đầy sương thu và gió lạnh, mẹ tôi âu yếm nắm tay tôi dẫn đi trên con đường dài và hẹp. Con đường này tôi đã quen đi lại lắm lần, nhưng lần này tự nhiên thấy lạ. Cảnh vật chung quanh tôi đều thay đổi, vì chính lòng tôi đương có sự thay đổi lớn: hôm nay tôi đi học”…
NGUYỄN TRỌNG ĐỨC (Cảm nhận về tập thơ "Những kỷ niệm tưởng tượng")SHO - Lâu nay, người ta biết đến Trương Đăng Dung với tư cách là một nhà nghiên cứu lí luận văn học. Nhưng gần đây, sự xuất hiện của tập thơ Những kỷ niệm tưởng tượng làm xôn xao văn đàn Việt Nam đã khiến đông đảo bạn đọc không khỏi ngạc nhiên khi nhận ra rằng: bên cạnh một Trương Đăng Dung lí luận còn có một Trương Đăng Dung thơ.
ĐÀO ĐỨC TUẤN Lang thang giữa hè Huế nồng nã. Bỗng nhận tin của Minh Tự: thêm một cuốn sách của Nguyễn Xuân Hoàng vừa được bạn bè góp in. Đầy đặn 360 trang sách với chân dung “người buồn trước tuổi” đằm đặm trên bìa đen trắng.
Vào lúc 14 giờ 25 phút ngày 13 tháng 7 năm 2011 (nhằm ngày 13 tháng 6 năm Tân Mão), nhà thơ Văn Hữu Tứ, hội viên Hội Nhà văn TT. Huế đã qua đời sau một thời gian lâm trọng bệnh. Từ đây, trong mái nhà anh gần hồ Tịnh Tâm, trên các con đường của Thành phố Huế cũng như những nơi anh thường lui tới, tác giả của các tập thơ “Bên dòng thời gian”, “Tôi yêu cuộc đời đến chết” vĩnh viễn vắng mặt.
LÊ HUỲNH LÂM (Đọc tập thơ “Năm mặt đặt tên”, Nxb Thuận Hóa, tháng 5-2011)
KHÁNH PHƯƠNG Nguyễn Đặng Mừng đến với nghề viết một cách tự nhiên, mà cũng thầm lặng như cách người ta theo đuổi một lý tưởng. Ông vốn là học trò lớp ban C (ban văn chương) những khóa gần cuối cùng của trường Trung học Nguyễn Hoàng, trường công lập duy nhất và cũng danh tiếng nhất tỉnh Quảng Trị trước 1975.
…Thuộc dòng dõi Do Thái Đông Âu, Frederick Feirstein sinh ngày 2 tháng Giêng năm 1940 tại New York City, thân phụ và thân mẫu ông có tên là Arnold và Nettie Feirstein…
L.T.S: Nhà thơ Xuân Hoàng sinh năm 1925 tại Đồng Hới, Bình Trị Thiên. Hội viên Hội nhà văn Việt Nam. Nguyên là quyền Chủ tịch Hội Văn nghệ Bình Trị Thiên, thuở nhỏ ông học ở Huế rồi dạy học ở Đồng Hới một thời gian trước khi thoát ly tham gia cách mạng.
Anh không thấy thời gian trôi thời gian ở trong máu, không lời ẩn mình trong khóe mắt làn môi trong dáng em đi nghiêng nghiêng như đang viết lên mặt đất thành lời về kiếp người ngắn ngủi.(T.Đ.D)
HOÀNG THỤY ANH Phan Ngọc đã từng nói: Thơ vốn dĩ có cách tổ chức ngôn ngữ hết sức quái đản để bắt người tiếp nhận phải nhớ, phải xúc cảm và phải suy nghĩ do chính hình thức tổ chức ngôn ngữ này.
TRẦN THIỆN KHANH (Nhân đọc Phim đôi - tình tự chậm, Nxb. Thanh niên 2010)
LGT: Tuệ Nguyên, một nhà thơ trẻ dám dấn thân để lục tìm chất men sáng tạo ở những vùng đất mới với khát vọng cứu rỗi sự nhàm chán trong thi ca. Trong chuyến xuyên Việt, anh đã ghé thăm tạp chí Sông Hương. Phóng viên Lê Minh Phong đã có cuộc trò chuyện với nhà thơ trẻ này.
KHÁNH PHƯƠNG Lê Vĩnh Tài tự chẩn căn bệnh của thơ tình Việt Nam là “sến”, nghĩa là đa sầu đa cảm và khuôn sáo, bị bó buộc trong những lối biểu hiện nhất định. Rất nhanh chóng, anh đưa được lối cảm thức đương đại vào thơ tình, cái ngẫu nhiên, vu vơ, ít dằn vặt và không lộ ra chủ ý, dòng cảm xúc ẩn kín sau những sự vật tình cờ và cả những suy lý.
HỒ THIÊN LONGBạn đọc TCSH thường thấy xuất hiện trên tạp chí, và một số báo văn nghệ khác một số tên tuổi như về văn xuôi có: Lê Công Doanh, Phùng Tấn Đông, Châu Toàn Hiền, Nguyễn Minh Vũ, Trần Thị Huyền Trang, Phạm Phú Phong, Trần Thùy Mai…
FAN ANH 1. Sự đồng hành của “ba thế hệ viết trẻ”