Alexis Jenni, Binh pháp của nước Pháp

08:29 30/12/2011
TRẦN THIỆN ĐẠO Trước khi bàn tới nội dung và hình thức thiên truyện L’Art français de la guerre (Binh pháp của nước Pháp - Nxb Gallimard) của Alexis Jenni vừa trúng giải Goncourt 2011, cũng nên nhắc qua mấy điều nổi bật chẳng dính dáng gì với chất lượng tự tại của tác phẩm. Mà chỉ đơn thuần với tựa đề cuốn sách và tác giả của nó.

Nhà văn Alexis Jenni - Ảnh: internet

[if gte mso 9]> Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 <![endif][if gte mso 9]> <![endif][if gte mso 10]> <![endif]

Thứ nhất, Binh pháp của nước Pháp là một tựa đề quả thật bất thường đặt cho một cuốn tiểu thuyết dày cộm, 634 trang khổ lớn, nhái theo nhan đề Binh pháp, luận thuyết đánh trận do Tôn Tử soạn thảo năm 513tr.CN, hơn hai thiên niên kỉ rưỡi trước ở bên Tàu. Thứ hai, đây là tác phẩm đầu tay của một tác giả đã vào độ tứ tuần, 48 tuổi, tiến sĩ sinh vật học, giảng dạy trong một trường tư thục ở miệt tỉnh, xa lạ với văn đàn. Thứ ba, trong hơn 100 tác phẩm trúng giải từ đầu thế kỉ XX cho tới nay, đây là lần thứ ba Ban Giám khảo viện Hàn lâm Goncourt choàng hoa cho một tác phẩm đầu tay, trực tiếp ghi nhận chất lượng của .

Bối cảnh

Với một bút pháp tự sự lưu loát, câu chuyện được trình thuật một cách giản dị, suôn sẻ. Người kể chuyện là một anh chàng vô công rồi nghề, sống qua ngày trong một gác xép bằng trợ cấp nhà nước nhờ đã làm giấy chứng đau ốm giả. Hắn tình cờ giáp mặt một tên lính già có
ánh mắt màu băng giá (nguyên tác: au regard couleur glacier), tên là Victorien Salagnon. Họ gặp nhau trong tình huống nào? Hãy nghe: 

Bấy giờ tôi đang ngụp đầu ngụp cổ trong tình trạng vô cùng bất ổn; mọi sự đều bất ổn; và sắp sửa chấm dứt cuộc đời. Tôi gặp Vitorien Salagnon vào lúc thậm tệ nhất, hắn đã tham dự một cuộc chiến dai dẳng hai mươi năm trời vẫn còn đang ám ảnh chúng tôi và vẫn chưa chấm dứt, hắn đã giẫm nát quả địa cầu dưới gót giày nhà binh, máu me nhuộm tận cùi chỏ. Nhưng hắn dạy tôi vẽ. Chắc hẳn hắn là họa sĩ duy nhất trong đội quân thuộc địa, nhưng ở đây chẳng có ai quan tâm tới loại chi tiết nhỏ nhặt này.

Hắn dạy tôi vẽ, và bù lại tôi chấp bút viết hồi kí cho hắn. Hắn kể, và tôi minh họa, và nom thấy trước mắt dòng sông đỏ máu chảy qua thành phố yên bình của mình, tôi nom thấy trọn cả binh pháp không hề đổi thay của nước Pháp, và tôi nom thấy người dân đang nổi dậy cùng một nguyên cớ, nguyên cớ đặc thù không hề đổi thay của nước Pháp. Victorien Salagnon mang đến cho tôi toàn bộ thời gian, qua cuộc chiến day dứt trong ngôn ngữ của chúng ta
.

Phải nói rằng tên lính già Victorien Salagnon này đã may mắn còn sống sót sau ba trận chiến khốc liệt xảy ra ngót nửa thế kỉ. Trước hết là cuộc chiến kháng Đức thời 1939-1945 khi nước Pháp bị chiếm đóng; ngay sau là thời 1945-1954 quân đội viễn chinh Pháp toan tính tái chiếm Đông Dương; rồi cuộc đàn áp đẫm máu dân tình Bắc Phi nổi dậy đòi độc lập vào những năm 1954-1962. Qua hồi ức của tên lính già đã trải qua ba cuộc chiến liên tục đó, tác giả biểu lộ nhận xét của mình về phương thức đánh trận của quân đội Pháp.

Dưới mắt tác giả

Là một tự sự hư cấu(*), hay đúng hơn là một hồi kí hư cấu, cuốn Binh pháp của nước Pháp dựa trên kí ức của một nhân vật đặc thù hiếm thấy trên văn đàn. Hồi kí của một thứ nhà binh gà mờ, thí dụ như trong thời chiến ở Việt Nam, hằng mai phục Việt cộng bằng cách ngày đêm nhấm nháp rượu nặng rượu nhẹ trong các quán bar, mồ hôi nhễ nhại trên lưng và cả trong đầu. Ấy là không nói tới những trận đánh lớn có qui mô hẳn hoi, mà điển hình là trận Điện Biên Phủ tháng năm 1954. Vì sao mà quân đội Pháp thậm tệ tới mức đó? Hãy nghe:

Quân đội Pháp là một đề tài khó nói. Chúng ta không biết nghĩ sao về bọn người ấy và, nhất là, không biết dùng bọn đó để làm gì. Quân đội ở Pháp vốn có truyền thống câm miệng hến, cứ răm rắp tuân lời từng chữ thủ lãnh của mình, là một tên dân sự được bầu nhưng chẳng có tí tẹo hiểu biết về quân sự, động gì cũng rờ mó, nhưng cứ để cho quân đội thoải mái muốn làm gì thì làm. Bọn nhà binh này, tốt hơn là tống nó vô xó xỉnh với nhau, trong những trại lính kín cửa cao tường ở miền nam nước Pháp, hoặc ở những miệt xa xôi trên thế giới để trông chừng các mảnh vụn của Đế quốc. Tốt hơn là bọn nó tung hoành bạo lực ở các nơi chốn khác, trên các lãnh địa xa lơ xa lắc mà dân tình chẳng giống chúng ta một chút nào, và chưa hẳn là dân tình.

Nhưng chẳng chỉ có vậy thôi đâu, mà việc giữ gìn trật tự trong nước cũng bị cực cùng quân đội hóa (nguyên tác: militirisation du maintien de l’ordre). Cũng hệt như nhân vật Victorien Salagnon, khi kháng chiến chống Đức đã chấm dứt, tay chân còn ngứa ngáy, liền nối tiếp trận mạc, dấn mình vào các cuộc chiến ở thuộc địa, Đông Dương, Bắc Phi, giành hụt quyền bính sắp mất, nước Pháp không ngừng giáp trận một cách hết sức phi lí và vô hiệu quả.

Hứng cảm

Khác hẳn đại đa số các tác phẩm đầu tay thường hay xoay quanh lỗ rún, cuốn Binh pháp của nước Pháp, qua thứ bút pháp sử thi cổ điển, xuất hiện dưới mắt chúng tôi và nhất là dưới mắt Ban Giám khảo viện Hàn lâm Goncourt, như một bài ca thật tình hứng khởi trong trận mạc và xương máu. Và đồng thời cũng là một bản trầm tư về bản sắc dân tộc và về mấy mươi năm nước Pháp tắm/lấm mình trong các trận chiến ở thuộc địa nay vẫn còn day dứt ám ảnh tâm hồn mình.

Paris, 06/11/2011
T.T.Đ
(SH274/12-11)




-------------------------------
(*) Xem: Trần Thiện Đạo, Tự sự hư cấu (tạp chí Hợp lưu, số 113, tháng 4 & 5 năm 2011).









Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • Ngôn ngữ văn học luôn mang dấu ấn thời đại lịch sử của nó. Đồng thời, thông qua ngôn ngữ tác phẩm người đọc có thể đánh giá được khả năng sáng tạo và phong cách sáng tác của người nghệ sĩ. Văn học Việt Nam từ sau 1975, đặc biệt là sau Đại hội VI của Đảng năm 1986 đã có những đổi mới mang tính đột phá trên mọi phương diện, trong đó có ngôn ngữ. Viết về đề tài lịch sử trong bối cảnh mới, các nhà văn sau 1975 không chịu núp mình dưới lớp vỏ ngôn ngữ cũ kĩ, khuôn sáo như trước.

  • Nếu có thể nói gì về tình trạng ngày càng thưa vắng các tiểu thuyết đọc được hôm nay, hay nói một cách chính xác hơn là sự vắng mặt của tiểu thuyết hay trong vài thập kỷ qua, theo tôi trước hết đó là vấn đề tâm thể thời đại

  • ĐINH XUÂN LÂM      (Hướng về 1000 năm Thăng Long - Hà Nội)Tiến sĩ Khiếu Năng Tĩnh sinh ngày 19 tháng 07 năm Quý Tỵ, niên hiệu Minh Mạng 14 (1833) tại xã Chân Mỹ, tổng Từ Vinh, huyện Đại An, phủ Nghĩa Hưng (nay là thôn Trực Mỹ, xã Yên Cường, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định).

  • HOÀNG TẤT THẮNG1. Khái quát về địa danh học.

  • NGUYỄN HOÀNG ĐỨCKhông có một xã hội nào sống và phát triển được nếu không cậy trông vào khả năng phê bình của chính mình. Nói một cách thật dễ hiểu, như người Pháp khẳng nhận: "Người ta dựa trên những gì chống lại mình".

  • PHONG LÊ      (Tiếp theo Sông Hương số 250 tháng 12-2009 và hết) Sau chuyển đổi từ sự chia tách, phân cách đến hội nhập, cộng sinh, là một chuyển đổi khác, cũng không kém tầm vóc: đó là từ cộng đồng sang cá nhân; với một quan niệm mới: cá nhân mạnh thì cộng đồng mới mạnh; cá nhân được khẳng định thì sự khẳng định vai trò cộng đồng mới được bảo đảm.

  • ĐÀO THÁI TÔNNhư chúng tôi đã có lời thưa từ bài báo trước, trong Thơ quốc âm Nguyễn Du (Nxb Giáo dục, H, 1996), thay vì việc xem "bản Kinh" của Truyện Kiều là bản sách in bởi vua Tự Đức, Nguyễn Thạch Giang đã viết đó chỉ là những bản chép tay bởi các quan văn trong triều. Điều này là rất đúng.

  • PHẠM QUANG TRUNGHiện giờ báo chí chuyên về văn chương ở ta đã phong phú và đa dạng. Riêng Hội Nhà văn đã có các báo Văn nghệ, Văn nghệ dân tộc và miền núi, Văn nghệ Tre, và các tạp chí Tác phẩm mới, Văn học nước ngoài.

  • LÊ ĐẠT     Cầm tên em đi tìm

  • VŨ NGỌC KHÁNH        (Trích tham luận: “Thử bàn về minh triết”)

  • LTS: Thế giới đang xuất hiện trào lưu phục hưng minh triết sau một thời gian dài chối bỏ. Ở Việt cũng đã hình thành Trung tâm Nghiên cứu Văn hóa Minh Triết thuộc Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt . Tiếp theo cuộc Hội thảo lần thứ I tại Hà Nội “Minh triết - giá trị nhân loại đang phục hưng”, cuối tháng 11.2009 tại Huế, Trung tâm đã tổ chức Hội thảo với chủ đề “Minh triết Việt trong tiến trình lịch sử văn hóa Việt”.

  • Giấy dó là sản phẩm thủ công của cha ông ta để lại. Xưa kia làng Bưởi có nghề làm giấy dó nổi tiếng. Giấy dó được dùng vào việc ghi chép văn bản chữ Hán nôm, viết bút lông mực tàu...

  • Sự phát triển của thực tiễn và lý luận nghệ thuật- dù ở đâu, thời kỳ lịch sử nào cũng vậy- thường phụ thuộc vào 3 nhân tố quan trọng và phổ quát nhất: Sự phát triển của khoa học và công nghệ; Những chính sách chính trị (trong đó bao gồm cả những chính sách về văn hóa và nghệ thuật); Những nhà tư tưởng và nghệ sỹ lớn.  

  • TRẦN HUYỀN SÂMClaude Lévi-Strauss là một trường hợp hiếm thấy và khó lặp lại trong lịch sử nhân loại. Lévi chính là một cú sốc đối với nền văn minh phương Tây. Lý thuyết của nhà cấu trúc học vĩ đại này là sự hạ bệ hùng hồn nhất đối với tư tưởng thống ngự và độc tôn của xã hội toàn trị châu Âu; và là sự biện minh sâu sắc cho một mô thức đa văn hóa của nhân loại.

  • LÊ THÀNH LÂNTrong 4 năm liền, Tào Mạt lần lượt cho ra đời ba vở chèo tạo nên một bộ ba chèo lịch sử với tiêu đề chung là Bài ca giữ nước, đều do Đoàn Nghệ thuật Tổng cục Hậu cần dàn dựng và đều được nhận những giải thưởng cao.

  • PHONG LÊĐó là: 1. Từ sự phân cách, chia đôi của hai thế giới - địch và ta, chuyển sang hội nhập, cộng sinh, có nghĩa là nhân rộng hơn các tiềm năng, cũng đồng thời phải biết cách ngăn ngừa, hoặc chung sống với các hiểm họa. 2. Từ cộng đồng chuyển sang cá nhân, cá nhân trở thành động lực quan trọng cho sự phát triển, nhưng cá nhân cũng sẵn sàng nổi loạn cho các ước vọng thoát ra khỏi các chuẩn mực của cộng đồng. Và 3. Từ phong bế (ở các cấp độ khác nhau) đến sự mở rộng giao lưu, hội nhập với khu vực và quốc tế, với sự lưu tâm hoặc cảnh báo: trong đi tắt, đón đầu mà không được đứt gẫy với lịch sử.

  • ĐỖ HẢI NINH(Nhân đọc tiểu thuyết Một mình một ngựa của Ma Văn Kháng. Nxb Phụ Nữ, H, 2009; tác phẩm nhận giải thưởng Hội Nhà văn Hà Nội 2009)

  • PHẠM QUANG TRUNGHiện nay, vấn đề đổi mới thi pháp đang được nhiều người cầm bút quan tâm. Xin ghi lại cuộc trao đổi mới đây giữa tôi (PQT) với một nhà văn (NV) về vấn đề bức thiết này.

  • (Theo bách khoa thần học New Catholie)THẨM GIÁ PHÊ BÌNH Việc thiết định giá trị phán đoán trong phê bình đã được kiểm thảo một cách nghiêm khắc trong thế kỷ XX. Chẳng hạn, người ta cho rằng phê bình đã vượt lên cả tầm vóc “viên đá thử vàng” trong việc thẩm giá hội họa để dẫn dắt thị hiếu thưởng thức hội họa của công chúng.

  • NGUYỄN ĐĂNG MẠNH(Kỷ niệm 70 năm ngày mất nhà văn Vũ Trọng Phụng 1939 - 2009)Trong lĩnh vực văn chương, tác phẩm không hay, không có giá trị nghệ thuật thì chỉ là con số không, chẳng có gì để nói, để bàn. Người viết ra nó, dù cuộc đời có ly kỳ thế nào, người ta cũng chẳng quan tâm.