VÕ VINH QUANG
Châu bản liên quan đến Hoàng Sa (năm Minh Mạng thứ 18 - 1837). Nguồn: Trung tâm Lưu trữ quốc gia I.
1. Mở đầu
Trong tiến trình phát triển Thừa Thiên Huế thành Đô thị loại I trực thuộc Trung ương, các cấp chính quyền và nhân dân tỉnh nhà đã và đang nỗ lực thực hiện có hiệu quả các mục tiêu quan trọng và cần thiết.
Đề án Quy hoạch chung đô thị Thừa Thiên Huế đến năm 2045, tầm nhìn đến năm 2065 (viết tắt: Đề án Quy hoạch) do Thủ tướng phê duyệt tại quyết định 108/QĐ-TTg/2024 vừa qua cũng nêu bật xây dựng Thừa Thiên Huế thành Thành phố trực thuộc Trung ương dựa trên nền tảng Bảo tồn, Phát huy giá trị di sản văn hóa vật thể, phi vật thể Cố đô, bản sắc văn hóa Huế, với đặc trưng văn hóa và di sản độc đáo, là Đô thị đặc sắc về sinh thái, cảnh quan, thân thiện môi trường và thông minh.
Theo đó, từ các Tầm nhìn 2030, 2045, 2065..., Đề án Quy hoạch đều nhấn mạnh vai trò chủ đạo của một Đô thị di sản với đặc trưng văn hóa, di sản, mang bản sắc Huế. Như vậy, việc phấn đấu trở thành Đô thị loại I trực thuộc Trung ương trên nền tảng Bảo tồn và phát huy tốt các giá trị di sản, con người, văn hóa Huế vừa là động lực phát triển, là niềm tự hào và mong ước của Đảng bộ, chính quyền và người dân Huế, lại vừa là trách nhiệm rất to lớn của xứ Huế đối với đất nước.
Có thể thấy, Đề án Quy hoạch chung, tổng thể ấy lấy việc Bảo tồn và phát huy các giá trị di sản Huế (gồm vật thể và phi vật thể) làm nòng cốt để xây dựng và phát triển. Bao hàm toàn bộ di sản Huế là những khối lượng di sản văn hóa lịch sử đồ sộ, mà ở đây chúng tôi tạm chia ra thành 4 phần chính yếu là: Di sản văn hóa cung đình (trong đó có hệ thống quần thể di tích Cố đô Huế), Di sản văn hóa làng xã dân gian, Di sản văn hóa truyền thống của gia tộc và Di sản văn hóa tôn giáo truyền thống (gồm các tôn giáo đặc trưng tại Huế như Phật giáo, Thiên Chúa giáo, đạo Cao Đài...). Các di sản văn hóa trên vừa có sự riêng biệt nhưng cũng vừa có sự tương hỗ, thống nhất, tác động ảnh hưởng qua lại với nhau, góp phần tạo nên một hệ di sản văn hóa Huế đặc trưng trong dòng chảy văn hóa dân tộc. Tại Huế, hệ thống di sản này là cực kỳ đồ sộ và càng ngày càng được bổ sung, phong phú hơn, nhất là từ những đợt tiến hành số hóa của các cá nhân, tổ chức trong và ngoài tỉnh.
Trong việc bảo tồn và phát huy di sản Huế, Đề án Quy hoạch có các định hướng cụ thể liên quan đến Quy hoạch Bảo tồn và phát huy giá trị quần thể di tích Cố đô Huế đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050... Tuy nhiên, quần thể di tích Cố đô Huế chỉ là một phần nhỏ trong di sản văn hóa cung đình Huế. Còn lại, các loại hình di sản văn hóa Huế (đã nêu) thì chưa thực sự có một chiến lược và tầm nhìn cụ thể để phát huy vững chắc.
Vấn đề bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa truyền thống Huế, theo chúng tôi là vấn đề rất to lớn và hệ trọng, liên quan đến nhiều lĩnh vực, nhiều ngành nghề... Bên cạnh đó, Thừa Thiên Huế sau khi mở rộng địa giới hành chính cho đến nay đã bao gồm rất nhiều làng xã, nhiều di tích di vật di chỉ lịch sử, văn hóa gắn liền với sự tồn tại, xây dựng và phát triển xứ Thuận Hóa, Phú Xuân xưa. Việc đánh giá những tác động thuận lợi và hạn chế của chính sách mở rộng địa giới hành chính, thiết nghĩ cũng cần được khảo cứu, luận bàn bằng các hội thảo, hội nghị chuyên môn, cũng như những điều tra thực địa cụ thể của các cấp chính quyền.
Quay trở lại với một vấn đề mà chúng tôi rất lưu tâm trong tầm nhìn và định hướng Quy hoạch Đô thị Huế, nhất là từ sau năm 2025 - khi Huế được chính thức trở thành Đô thị loại I trực thuộc Trung ương, đó là câu chuyện Di sản Hán Nôm Huế sẽ “đứng” ở vị trí nào trong đời sống văn hóa và di sản Huế? Nói cách khác, Di sản Hán Nôm Huế có vai trò và vị thế như thế nào, có tầm quan trọng ra sao trong chiến lược phát huy giá trị di sản của Đô thị Huế ở tương lai? Thông qua đó, chúng ta cần có thế ứng xử ra sao đối với di sản Hán Nôm Huế.
2. Di sản Hán Nôm Huế, tầm quan trọng và những giá trị đặc trưng
Xứ Huế là nơi hội tụ những sắc màu văn hóa đa dạng, độc đáo trong lịch sử, từ quá trình giao thoa và tiếp biến văn hóa xưa. Bên cạnh những dấu tích văn hóa đặc trưng cư dân bản địa (tiêu biểu là văn hóa Chăm) nhiều thế kỷ trước, thì còn có sự “hợp lưu” giữa văn hóa Bản địa với văn hóa Đại Việt, mà di sản Hán Nôm Huế đóng vai trò là “cầu nối” quan trọng để khơi mở, chứng thực những chứng tích của quá trình “hợp lưu” ấy. Có thể kể đến những câu chuyện huyền tích, và nhiều bản sắc phong tôn vinh những vị thần bản địa (như thần Thiên Y A Na, Thai Dương phu nhân, Thạch tượng Dương thần, Hồng Hoa phu nhân, bà Trời Thiên Mụ...) đều được dân gian lưu truyền, triều đình phong tặng, thể hiện rõ nét sự tôn trọng và hợp hòa về văn hóa trong tâm thức người Việt.
Từ thời Chúa Nguyễn (1558 - 1777), Tây Sơn (1777 - 1802) và triều Nguyễn (1802 -1945), vùng đất Thuận Hóa - Phú Xuân này đã chính thức trở thành trung tâm hội tụ các mạch nguồn văn hóa. Bởi lẽ, xứ sở này là trung tâm chính trị của nhiều triều đại từ khoảng thế kỷ thứ XVI đến nửa đầu thế kỷ XX. Đặc biệt, triều Nguyễn là triều đại quân chủ cuối cùng, để lại nhiều di sản tư liệu (vật thể và phi vật thể) rất đặc sắc, giá trị cao cho lịch sử, văn hóa, khoa học kỹ thuật của dân tộc. Có thể thấy, triều Nguyễn đã góp phần tạo nên một hệ thống di sản tư liệu đồ sộ, phong phú và trong số đó có nhiều di sản tư liệu đã được Nhà nước công nhận là Bảo vật quốc gia, UNESCO ghi nhận là Di sản tư liệu của Thế giới, như Thơ văn trên kiến trúc cung đình Huế, Mộc bản, Châu bản, Cửu đỉnh, Hệ thống Nhã nhạc cung đình Huế…
Di sản Hán Nôm Huế, vì thế, là “chìa khóa” quan trọng nhất để khơi mở, bóc tách, đi sâu vào khai thác, bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa vật thể và phi vật thể của xứ Huế. Bởi lẽ, di sản Hán Nôm Huế là hệ thống các tư liệu, văn tự được thể hiện trên rất nhiều vật liệu (như trên giấy dó, giấy sắc phong, trên gỗ, đá, gạch, đồ đồng, bạc, vàng...). Các tư liệu và văn tự Hán Nôm ấy chứa đựng tiếng nói và tiếng đồng vọng của người xưa. Chúng được thể hiện ra bên ngoài bằng các chữ Hán, chữ Nôm, nhằm để biểu đạt tiếng lòng của cha ông, truyền thống của dân tộc, là nét riêng về văn hóa của vùng miền, của đất nước. Do vậy, hệ thống di sản Hán Nôm nói chung, di sản Hán Nôm Huế nói riêng không chỉ có giá trị đặc trưng về một thời kỳ lịch sử, lưu giữ những nét đẹp văn hóa độc đáo về truyền thống của làng xã, gia tộc, đất nước... mà còn thể hiện trình độ thẩm mỹ, đặc sắc của những người thợ thủ công đã tạo tác nên những “bức thi họa” rất riêng, giàu bản sắc.
Chẳng hạn, hệ thống văn bản di sản Hán Nôm ở trên các hoành phi, biển gỗ, đố bản, trên các chuông đồng, bia đá... hay như hệ thống thơ văn, kinh kệ trên các mộc bản hiện tồn của Huế (như mộc bản kinh Phật, mộc bản thơ văn tại các chùa, các tư gia như phủ Tùng Thiện vương, phủ Tuy Lý vương, nhà thờ Đặng Thùy Trâm, chùa Từ Đàm, chùa Bảo Lâm, chùa Quốc Ân, chùa Thuyền Tôn...) thực sự đều là những nguồn tư liệu quý, góp phần không nhỏ để khẳng định vị thế của một đô thị di sản Huế mà các địa phương khác không dễ gì so sánh được.
![]() |
Mộc bản Vỹ Dạ hợp tập, ở phủ Tuy Lý vương Nguồn: Trung tâm văn hóa Phật giáo Liễu Quán, Huế. |
Bên cạnh nguồn tư liệu Hán Nôm thuộc về cung đình (trong đó có hệ thống di văn Hán Nôm thuộc quần thể di tích Huế) đã và đang được các đơn vị quản lý nhà nước và các tổ chức trong nước bảo quản, khai thác và phát huy giá trị (như các Trung tâm lưu trữ quốc gia thuộc Hệ thống Văn thư lưu trữ Nhà nước, các thư viện của Viện Nghiên cứu Hán Nôm, Viện Sử học, Viện Văn học, Viện Thông tin Khoa học xã hội, thư viện các trường đại học và hệ thống các thư viện quốc lập, dân lập trên toàn quốc, nhất là Thư viện Quốc gia Việt Nam, Thư viện Khoa học tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh, Thư viện Tổng hợp Huế…), hiện nay còn rất nhiều di sản Hán Nôm trong các Phủ Phòng (thuộc hoàng gia triều Nguyễn), tư gia, làng xã, chùa chiền, nhà thờ Thiên Chúa giáo, lăng mộ vua chúa, quan lại, nhân dân... trên khắp toàn tỉnh Thừa Thiên Huế, với số lượng rất lớn (hàng triệu đơn vị tư liệu), có đóng góp trên nhiều bình diện đối với lịch sử của đất nước, mà cho đến nay vẫn chưa được khảo sát và thống kê, phân loại một cách đầy đủ, nhằm hướng đến việc bảo tồn, khai thác, tìm hiểu và phát huy bền vững các giá trị của di sản Hán Nôm Huế.
![]() |
Chế phong cho Tiền quân Đô thống Võ Văn Kiêm (Hương Long, Huế) |
Thời gian qua, công tác số hóa tư liệu và áp dụng khoa học công nghệ vào việc bảo quản, khai thác, phát huy giá trị di sản Hán Nôm Huế đã được nhiều tổ chức, cá nhân đẩy mạnh, tiêu biểu như chương trình số hóa của Thư viện Khoa học Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh phối hợp với Thư viện Tổng hợp Thừa Thiên Huế và Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế đã triển khai số hóa ở hàng trăm làng xã, thôn ấp và phủ đệ trên địa bàn tỉnh nhà; hoặc như chương trình số hóa của Đại học Temple (Philadelphia, Pennsylvania, Hoa Kỳ) phối hợp với Thư viện Tổng hợp Thừa Thiên Huế trong vài năm trước đây.
Đến nay, thành tựu bước đầu của công tác số hóa trên là hàng triệu trang tài liệu Hán Nôm đa dạng về thể loại, có giá trị cao về nội dung và nghệ thuật đã được chuyển hóa thành tư liệu số (digital documents) để lưu trữ. Trong số đó, có những bản tư liệu cực kỳ hiếm có (như nguồn tư liệu hành chính thời chúa Nguyễn, thời Tây Sơn và triều Nguyễn có đầy đủ dấu ấn triện, hoa áp, thể thức chữ Hán Nôm đặc trưng cho từng giai đoạn... từ lâu được làng xã, gia tộc trân quý bảo vệ, nay nhờ có quá trình số hóa nên nhiều người được tiếp cận rõ ràng cụ thể) đóng góp không nhỏ cho quá trình nghiên cứu, bảo tồn và phát huy giá trị di sản tư liệu cổ của cha ông, đồng thời rất hữu ích trong việc tìm hiểu, bổ khuyết nguồn thông tin tư liệu lịch sử ở địa phương và đất nước.
![]() |
Tờ Chiếu ban cho Trà quận Phu nhân Trần Thị là bậc Khai quốc công thần bậc 2 (Gia Long năm thứ 4 -1805) ở làng Diêm Trường, xã Vinh Hưng, huyện Phú Lộc. |
Dẫu vậy, nguồn tư liệu số trên (vốn đã được thực hiện trong hơn 10 năm qua) vẫn chỉ nằm trong kho lưu trữ của các đơn vị như các “sản phẩm thô”, chưa có sự phân loại cụ thể, rõ ràng và chi tiết nhằm góp phần khai thác, phát huy giá trị một cách hữu ích.
Sống trong một “kho tàng” di sản vô giá này, những người làm công tác nghiên cứu văn hóa cổ truyền như chúng tôi thực sự rất mừng, nhưng cũng rất băn khoăn, lo lắng. Mừng là bởi chúng ta có được nhiều điều kiện thuận lợi để tiếp cận, khảo sát, nghiên cứu về di văn của ông cha. Đó là những dấu ấn đậm nét, là những đóng góp to lớn cho di sản văn hóa Việt Nam của vương triều Nguyễn; song chính đó lại là trách nhiệm lớn cho những người thuộc hậu bối như chúng ta. Bởi lẽ, mọi thứ đều có thể bị hư hỏng, mai một do thiên tai, chiến tranh, ý thức…
Lịch sử văn hóa của từng vùng đất, của quốc gia dân tộc được thể hiện ra bằng chữ viết. Và, chữ Hán Nôm là sinh ngữ của dân tộc ta trong hơn ngàn năm qua. Nhưng cho đến nay, với những biến động của thời cuộc, lớp người nghiên cứu di sản Hán Nôm ngày càng ít đi bởi nhiều lý do khách quan và chủ quan nhất định, trong đó lý do chính yếu đó là: chữ Hán Nôm trở thành “tử ngữ” (ngôn ngữ “chết” tức thuộc về quá khứ), người học Hán Nôm muốn đọc hiểu, nắm bắt được tương đối về nội dung của văn bản thì bắt buộc phải có thời gian tích lũy khá nhiều năm, phải nắm được các thể thức văn bản rất đa dạng (loại hình văn bản hành chính, chính luận, văn phong nghệ thuật, kỹ thuật biên soạn…) song nghề này khó tự nuôi sống được bản thân…
Mặt khác, hiện nay nhà nước và các ban ngành hữu trách mặc dù đã có một số thay đổi trong cách nhìn nhận về loại hình di sản này, song về cơ bản vẫn chưa thực sự quan tâm và tạo điều kiện thuận lợi, hỗ trợ về vật chất và tinh thần cho việc khai thác, nghiên cứu… Đó là thực trạng rất đáng lo ngại.
3. Một số đề xuất nhằm khai thác, phát huy giá trị nguồn di sản Hán Nôm triều Nguyễn, hỗ trợ đắc lực cho lịch sử văn hóa của địa phương và của quốc gia dân tộc
Để phát huy một cách có hiệu quả nguồn di sản Hán Nôm nhằm cung cấp nguồn tư liệu quý giá phục vụ cho công tác bảo tồn, gìn giữ nền văn hóa truyền thống của dân tộc, xây dựng một nền văn hóa mới đậm đà bản sắc, đáp ứng tốt nhất về nguồn lực quan trọng cho định hướng xây dựng Thừa Thiên Huế thành một trung tâm văn hóa du lịch đặc trưng của quốc gia, thành phố trực thuộc Trung ương theo tinh thần Nghị quyết số 54-NQ/TW của Bộ Chính trị, chúng ta cần đặt ra các giải pháp cụ thể sau:
- Các cấp chính quyền, giới chuyên môn và toàn dân cần có sự nhìn nhận chuẩn xác, đúng đắn về vai trò, vị thế và giá trị quan trọng của nguồn di sản Hán Nôm Huế trong thời đại hiện nay, đặc biệt là với tiến trình phát triển của đô thị Huế. Bởi lẽ, di sản Hán Nôm Huế hiện tại được xem là nguồn di sản tư liệu cực kỳ quan trọng và đáng quý của Huế, có số lượng rất đồ sộ, đa dạng về chủng loại văn bản, phong phú về nội dung ý nghĩa, liên quan đến rất nhiều lĩnh vực, ngành nghề cổ truyền của địa phương, dân tộc. Bề dày truyền thống văn hóa của xứ Huế sở dĩ được kết tinh và phát huy tốt hiện nay là do nhiều yếu tố hội tụ, và nguồn di sản Hán Nôm là một thành tố trọng yếu không thể thiếu khuyết. Di sản Hán Nôm Huế không trực tiếp sản sinh ra các giá trị vật chất và tinh thần, nhưng lại là “chất liệu”, là nguồn tư liệu thiết yếu để làm nền tảng, căn cứ quan trọng nhằm bảo tồn và phát huy các giá trị vật chất, tinh thần trên nhiều bình diện. Chẳng hạn, nếu không có nguồn tư liệu Hán Nôm được lưu trữ qua nhiều thời kỳ, chúng ta sẽ không thể có căn cứ nhằm khẳng định chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, lãnh hải của Việt Nam trong lịch sử (điển hình như công cuộc thu thập tư liệu nhằm khẳng định các quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa là của Việt Nam).
![]() |
Tờ Thị cho làng Hà Trung được quyền quản lý mặt nước xung quanh phá Hà Trung, của quốc chúa Nguyễn Phúc Chu năm Vĩnh Thịnh thứ 9 (1713). |
- Để Huế xứng đáng trở thành một Đô thị di sản đặc trưng của Việt Nam, của Châu Á, là trung tâm giao lưu văn hóa lịch sử của toàn vùng, thiết nghĩ chúng ta cần gấp rút xây dựng, hình thành nên một Trung tâm, hoặc Viện Nghiên cứu về di sản Hán Nôm (và văn hóa cổ truyền) Huế. Đây là tầm nhìn, là chiến lược phát triển lâu dài, phục vụ cho công cuộc bảo tồn, khai thác và phát huy giá trị di sản một cách bền vững, đặc biệt là rất phù hợp với công cuộc xây dựng Huế thành trung tâm văn hóa du lịch, trung tâm di sản đặc sắc của Việt Nam. So sánh với các địa phương trên cả nước, ngoại trừ Thủ đô Hà Nội thì theo tìm hiểu của chúng tôi, khó có địa phương nào hàm chứa nguồn tư liệu Hán Nôm độc đáo, đồ sộ và đặc sắc như Huế. Dẫu vậy, thời gian qua, nhiều tỉnh thành đã tổ chức đẩy mạnh khai thác, bảo tồn và phát huy nguồn di sản Hán Nôm của địa phương họ (tập trung nhất là các tỉnh phía Bắc, Bắc Trung Bộ, Thành phố Hồ Chí Minh) một cách có hệ thống, có chiến lược. Trong khi đó, các công trình liên quan đến tư liệu Hán Nôm ở Thừa Thiên Huế trong hơn 20 năm qua thường chỉ là các công trình cá nhân, hoặc nhóm người yêu thích văn hóa cổ truyền, phần nào đó là một số ấn phẩm của Thư viện Tổng hợp tỉnh Thừa Thiên Huế... chứ chưa thực sự được quan tâm, đầu tư mang tầm nhìn chiến lược của các cấp chính quyền, để khai thác và phát huy giá trị di sản Hán Nôm Huế một cách tốt nhất.
- Cần triển khai tổ chức các lớp học cơ bản, nâng cao, các lớp bồi dưỡng ngắn hạn, dài hạn về Hán Nôm cho học sinh, sinh viên và những người có quan tâm, trong đó tập trung vào cách đọc hiểu, xử lý văn bản học Hán Nôm, xử lý nguồn tư liệu, đọc và minh giải được các loại hình văn bản thực tế như văn bản Hành chính (Châu bản, Chế phong, Sắc phong, Sách phong, Văn bằng, Lệnh chỉ, Lục cấp, Văn khế, đơn từ)… Công tác này cần có chiến lược, bài bản và có mục tiêu định hướng lâu dài, nhằm tạo nênmột đội ngũ nhân lực mạnh nhằm phát huy giá trị của hệ thống tư liệu Hán Nôm đồ sộ của Huế nói riêng, của toàn miền Trung nói chung. Hiện nay, theo như tìm hiểu sơ bộ của chúng tôi, nhu cầu học tập về Hán Nôm đang ngày càng tăng cao tại các địa phương, vùng miền trong cả nước. Vì thế, các ban ngành hữu trách nên chăng cần có những chính sách cụ thể để khuyến khích, động viên người học Hán Nôm nhằm kế thừa và đẩy mạnh việc đào tạo, bồi dưỡng nâng cao nguồn nhân lực trong lĩnh vực Hán Nôm, nhất là tại các địa phương như Huế, Quảng Trị, Quảng Bình, Hà Tĩnh, Nghệ An... những nơi còn lưu giữ được số lượng tư liệu Hán Nôm khá đồ sộ.
- Tích cực phối hợp giữa các tổ chức, cá nhân trong và ngoài địa phương, đẩy mạnh liên kết vùng, liên kết quốc gia và quốc tế để đẩy mạnh thu thập, khai thác, phân loại di sản Hán Nôm (trong đó có chương trình số hóa và tiến tới đầu tư dịch thuật, xuất bản, bạch hóa nội dung, nghệ thuật, ý nghĩa của các nguồn tư liệu Hán Nôm cung đình, dân gian, gia tộc và tôn giáo... hiện tồn).
![]() |
Sắc phong cho Tống Sơn quận chúa Nguyễn Thị Ngọc Vạn, năm Khải Định thứ 2 (1917) của làng Dã Lê Thượng, phường Thủy Phương, thị xã Hương Thủy, Thừa Thiên Huế. |
- Tổ chức các hội nghị, hội thảo chuyên đề liên quan đến di sản Hán Nôm Huế, để các nhà quản lý, những người làm công tác chuyên môn... tìm hiểu, nghiên cứu về vai trò, vị thế của di sản Hán Nôm đối với sự phát triển của Đô thị di sản Huế, đề xuất các mô hình, phương án nhằm bảo tồn, phát huy tốt hơn nữa nguồn di sản Hán Nôm Huế hiện nay; đưa ra các giải pháp hoạch định, tầm nhìn dài hạn nhằm khai thác di sản Hán Nôm Huế phục vụ cho sự phát triển kinh tế xã hội, phục vụ du lịch; phối hợp với các ngành nghề lĩnh vực khác nhằm liên kết phát huy giá trị (như áp dụng khoa học công nghệ trong việc quản lý, phát huy nguồn tư liệu Hán Nôm đã số hóa; cách trao đổi, khai thác qua lại giữa tư liệu Hán Nôm Huế với các địa phương trong nước, các thư viện và trung tâm lưu trữ ở nước ngoài...).
- Các tạp chí của quốc gia và của địa phương (như Tạp chí Sông Hương, Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển...) cần đẩy mạnh hơn nữa các số chuyên đề liên quan đến di sản văn hóa cổ truyền nói chung, di sản Hán Nôm nói riêng nhằm không ngừng thu hút sự quan tâm của độc giả đến những lĩnh vực này.
- Phối hợp đào tạo, tập huấn các phương thức, kỹ năng chuyên môn để tu bổ, bảo quản nguồn tư liệu Hán Nôm triều Nguyễn hiện có.
- Đầu tư khai thác có trọng điểm các tư liệu Hán Nôm có giá trị (bằng những hình thức như trưng bày triển lãm, biên dịch xuất bản, tạo các diễn đàn trao đổi trên các tạp chí…).
- Tạo điều kiện thuận lợi và hỗ trợ nguồn kinh phí cần thiết để tăng cường công tác số hóa hoặc tiếp cận nguồn tư liệu số hóa đã có của Huế nói riêng, của Việt Nam nói chung. Công việc này cần được đưa vào nhiệm vụ chiến lược toàn diện, nhằm xử lý đầy đủ và khai thác phát huy giá trị, đóng góp cho quá trình bảo tồn và phát triển bền vững của tỉnh Thừa Thiên Huế, theo hướng phát huy giá trị của Đô thị di sản Quốc gia đặc thù.
![]() |
Cụm 5 văn bia ở Võ Miếu Huế đang nằm giữa trời, có nguy cơ hư hỏng nhanh chóng |
![]() |
Văn bia Chiêu nghi Trần Thị Xạ ở Đồi Dương Xuân. |
- Cần quan tâm hơn nữa và có phương án nhanh chóng, hiệu quả để bảo vệ các di sản vật thể và phi vật thể hiện đã và đang có nguy cơ hư hỏng, mai một dần do nằm ngoài trời, chịu ảnh hưởng trực tiếp bởi thời tiết. Trong số đó, nhiều văn bia ngự chế, cung đình của các vua chúa triều Nguyễn đang hiện hữu nhưng có tình trạng xuống cấp đáng báo động, như các văn bia ngự chế Trạch Nguyên tiếu lộc; Đông Lâm dặc điểu, Quá Phổ Lợi hà bi ký, Huỳnh tự thư thanh, Thị học thi tính tự, Ngự chế Thuận An tấn ký... hay như các văn bia quý ở Võ Miếu Huế, cụm 3 văn bia ở vườn Cơ Hạ - Đại Nội Huế.
- Cần phối hợp hiệu quả để đưa các di tích tiêu biểu của triều Nguyễn vào hệ thống di tích được quản lý của nhà nước, như cụm lăng mộ và nhà thờ của Đoan Hùng Quận công Nguyễn Văn Trương ở làng An Cựu; khu mộ phần của vợ chồng Thượng thư Lê Quang Định tại Ngũ Tây, phường An Tây; khu tháp tổ của thiền sư Nguyên Thiều; lăng mộ và tấm bia quý giá ở lăng mộ Chiêu nghi Trần Thị Xạ… Bởi lẽ, đó đều là những khu lăng mộ, tháp tổ độc nhất vô nhị, hiếm có và cực kỳ quý giá ở Huế, với nhiều giá trị đặc trưng, độc bản, không nơi nào có được.
V.V.Q
(TCSH53SDB/06-2024)
PHAN THANH HẢIDưới thời quân chủ, hầu như ở tất cả các nước phương Đông đều có tục tế giao. Tế giao tức là tổ chức nghi lễ cúng để con người có thể giao tiếp được với trời, đất và các bậc thần linh.
LÊ NGUYỄN LƯUI. QUAN NIỆM VỀ SỐNG CHẾT
HUỲNH ĐÌNH KẾT
Di tích cảnh quan Huế là một bộ phận cấu thành diện mạo văn hoá Huế. Ngày nay, di tích cảnh quan được quan niệm là loại hình văn hoá vật thể (Tangible culture) trong hàm nghĩa phân biệt với văn hoá phi vật thể (Intangible culture). Dẫu sao cũng chỉ tương đối.
LIỄU THƯỢNG VĂNCố đô Huế, một trong những trung tâm văn hoá, lịch sử của Việt Nam. Không những thế, Huế còn là một tổng thể di tích quan trọng, sánh hàng kì quan trên thế giới. Cố đô thơ mộng mang đầy tính nghệ thuật lẫn với cái nét sâu thẳm, ẩn bóng của học thuật Đông phương và truyền thống dân tộc…
NGUYỄN HÀO HẢITrong lịch sử, việc làm những đồ nghệ thuật giả chỉ bắt đầu xuất hiện ở những xã hội có đời sống kinh tế, đời sống văn hóa tinh thần khá phát triển.
NGUYỄN TRƯƠNG ĐÀNChuyện xưaGiờ đây, những vị tham gia biên dịch Mục lục Châu bản Triều Nguyễn (MLCBTN) trong Uỷ ban phiên dịch sử liệu Việt Nam thuộc Viện Đại học Huế những năm sáu mươi của thế kỷ trước, đã lần lượt quy tiên. Chỉ còn lại một người cuối cùng đang dưỡng lão trong một ngôi nhà khá yên tĩnh dưới bóng những lùm cây sớm chiều toả mát trong một xóm ven sông Cẩm Lệ, thuộc huyện Hoà Vang, ngoại ô Đà Nẵng. Đó là bác Ngô Văn Lại, năm nay ngoài tuổi bảy mươi.
NGUYỄN HỮU THÔNGCó những câu hỏi đặt ra, Huế mãi không có câu trả lời thuyết phục:* Tại sao mặt hàng lưu niệm trong thị trường du lịch, trong các lễ hội Festival là nghèo nàn đến thế! Sản phẩm thủ công Huế lác đác chen chúc khuất lấp trong lớp lớp hàng Trung Quốc và các tỉnh khác trong nước?* Tại sao trong quá trình trùng tu, Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế lại phải mời thợ từ "Đàng Ngoài" trong nhiều khâu kỹ thuật từ sơn, thếp, mộc, làm ngói men, gạch bát tràng...?* Tại sao nhà phục chế Trịnh Bách lại phải sống ở Hà Nội, để gửi vào Huế những tấm long bào, long cổn, hia, mão và kể cả những phiên bản phục chế men lam thời Nguyễn?...
HOÀNG ĐẠO KÍNHVăn hoá xứ Huế là một hiện tượng: sinh sôi và thịnh vượng trong khoảng thời gian và không gian địa lý hạn hẹp. Cả hai nhân tố, vật thể lẫn phi vật thể, đều kịp đạt đến trình độ cao và thấm đậm những cái riêng, so với các thời kỳ lịch sử trước đó và so với các miền đất khác. Di sản văn hoá xứ Huế không chỉ phong phú, không chỉ đặc sắc, mà còn kiệt xuất, bởi nó sở hữu rất nhiều những cái duy nhất.
BEATRICE KALDUN (Nhân viên chương trình Văn hoá của UNESCO tại Bangkok)Xin chào quý vị đại biểu!Hôm nay, tôi xin bày tỏ sự vui mừng khi có mặt tại đây, đại diện cho Ngài Richard Engelhardt, Cố vấn Văn hóa khu vực châu Á - Thái Bình Dương tham gia cuộc Hội thảo về vấn đề bảo tồn và phát triển hội nhập của Huế, một trong những di sản quý giá nhất của Việt Nam và Thế giới.
PHAN THUẬN ANSự quan hệ công tác giữa UNESCO với Việt Nam đã bắt đầu có từ hơn 50 năm về trước. Nhưng, sự hợp tác chặt chẽ để mang lại những hiệu quả thiết thực và hữu ích cụ thể thì chỉ mới diễn ra trong vòng vài chục năm trở lại đây. Ủy ban Quốc gia UNESCO Việt Nam và Bộ Văn hóa Thông tin nước chủ nhà đã đóng góp những vai trò xúc tác quan trọng trong mối quan hệ làm việc giữa tổ chức UNESCO đóng tại Paris và các quan chức Việt Nam ở những tỉnh có di sản văn hóa và di sản thiên nhiên nổi bật.
PHAN TIẾN DŨNGHuế một vùng non sông kỳ tú, với sự sáng tạo của con người đã lưu giữ trong lòng mình những tài sản vô cùng quý giá. Một trong những giá trị nổi bật mang tính toàn cầu là Quần thể Di tích Huế đã được công nhận vào Danh mục Di sản Văn hóa Thế giới (World Heritage List) ngày 11-12-1993. Bên cạnh đó, Huế còn là hội điểm về những di sản vật thể vừa phong phú vừa đa dạng. Từ mảnh đất này đã hình thành nên những phong cách, tạo nên nhiều loại hình nghệ thuật, đã sinh thành nhiều tài năng, đã hội tụ nhiều danh nhân để góp phần nên một Huế vừa mang đặc trưng bản sắc Việt Nam, vừa có sắc thái riêng của một vùng đất Cố đô.
NGUYỄN VĂN MỄ (Trích)Huế - thành phố lịch sử, một trung tâm văn hóa du lịch, là vùng đất có bề dày văn hóa với những tầng văn hóa khác nhau: di chỉ Khảo cổ học thời Tiền, Sơ sử; các dấu tích của văn hóa Sa Huỳnh; văn hóa Chămpa; văn hóa Đại Việt... và vô cùng quan trọng là hệ thống di tích Cố đô được xây dựng dưới vương triều Nguyễn.
LƯU TRẦN TIÊUHiếm có một miền đất nào mà ở đó những giá trị văn hóa lại đậm đặc, phong phú, đa dạng và đặc sắc như ở Huế. Từ góc nhìn địa - chính trị - văn hóa, xứ Huế xưa như là một vị trí chiến lược trọng yếu, vừa là cầu nối, vùng đất mở, vừa là nơi diễn ra sự chồng lấn, dung hợp, tiếp biến các vùng văn hóa, các dòng văn hóa để tạo dựng thành một trung tâm văn hóa trên cái nền chung của văn hóa Việt Nam, lóng lánh những nét riêng đặc sắc của mình.
NGUYỄN QUỐC HÙNGNăm nay, chúng ta kỷ niệm 10 năm Quần thể Di tích Kiến trúc Huế được ghi vào Danh mục Di sản Văn hóa Thế giới của UNESCO, 10 năm với rất nhiều thành tựu đổi thay. Nhớ lại chỉ sau 5 năm trở thành Di sản Văn hóa Thế giới, Tiến sĩ Richard Engelhardt chuyên gia về văn hóa khu vực châu Á - Thái Bình Dương của UNESCO đã mạnh dạn tuyên bố: “tình trạng cứu nguy khẩn cấp của khu di tích Huế đã qua đi” và “chúng ta chuyển từ giai đoạn khẩn cấp sang giai đoạn ổn định trong chiến dịch vận động bảo tồn di tích Huế”(1)
NGUYỄN KHOA ĐIỀMTrong các di sản văn hoá ở nước ta, Huế giữ một vị trí đặc biệt. Chính vì thế mà ngay sau ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, giữa bộn bề công việc, Đảng và Nhà nước ta vẫn dành cho di sản văn hoá Huế sự quan tâm thích đáng. Dù chưa tập hợp được hồ sơ đầy đủ, chưa có được nguồn kinh phí thoả đáng, nhưng từ năm 1979, Nhà nước ta đã có văn bản đặc cách quy định việc bảo vệ di tích thành nội Huế.
PHÙNG PHUCách đây vừa tròn 10 năm, ngày 11 tháng 12 năm 1993 đã đánh dấu một sự kiện quan trọng đối với Huế và với cả nền văn hóa lâu đời của dân tộc Việt Nam: Quần thể Di tích Cố đô Huế đã chính thức được UNESCO ghi tên vào danh mục Di sản Văn hoá Thế giới với dòng chữ “Ghi tên vào danh mục này là công nhận giá trị nổi bật toàn cầu của một tài sản văn hoá hoặc thiên nhiên để được bảo vệ vì lợi ích của nhân loại”. Lịch sử vùng đất Phú Xuân- Huế với Di sản Văn hóa Thế giới đầu tiên của Việt Nam mở ra một trang mới, giang rộng vòng tay đón bè bạn trong và ngoài nước đến tham quan, nghiên cứu và truyền đạt kinh nghiệm trong công việc bảo tồn và phát huy giá trị.
TRƯƠNG THỊ CÚCSau Hiệp định Paris năm 1973, Thành uỷ Huế chủ trương phải xây dựng thêm các tổ chức cách mạng biến tướng để tập hợp lực lượng trí thức, văn nghệ sĩ, sinh viên ở nội thành; tạo cho được những hoạt động công khai, hợp pháp nhằm thu hút quần chúng ở vùng địch tạm chiếm hướng đến mục tiêu đấu tranh giải phóng dân tộc, đòi dân sinh, dân chủ, tiến tới đòi thi hành Hiệp định Paris.
TRƯƠNG THỊ CÚCCách đây gần tròn 50 năm, từ Đại hội Anh hùng Chiến sĩ Thi đua lần thứ 3 năm 1956, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát động chiến dịch “Vì miền Nam ruột thịt”. Thực hiện chủ trương nầy, năm 1957 Bộ Văn hoá và Thư viện Quốc gia Việt Nam đã chính thức chỉ đạo 26 thư viện các tỉnh và thành phố ở miền Bắc xây dựng trong lòng mỗi thư viện một “Thư viện Kết nghĩa” vì miền Nam ruột thịt theo quan hệ kết nghĩa giữa các tỉnh, thành Bắc-Nam.
PHAN THANH HẢISông Hương là báu vật mà trời đất đã ban tặng cho Huế. Đã tự bao giờ, sông Hương đã được xem là dòng sông của thi ca, nhạc họa, của kiến trúc, nghệ thuật xứ Huế. Đã có nhà văn từng thốt lên: “Nếu một ngày nào đó sông Hương đột nhiên biến mất, thì Huế có còn là Huế nữa không?!”...
BỬU ÝMột đất nước có lịch sử lâu đời hẳn nhiên thừa hưởng di sản phong phú và đủ loại.Trước hết, vấn đề di sản không nhất thiết đi đôi với Festival. Di sản có thể nằm một cõi, mà Festival lại nằm một nơi. Cũng có thể phát huy riêng rẽ, phục vụ quần chúng khác nhau, nhưng cùng chung một trục văn hoá để cùng được bảo tồn và phát huy. Nhưng nếu di sản sánh đôi với Festival thì đó là một cuộc nên duyên như được dành sẵn.