Bài phát biểu của nhà văn Tô Nhuận Vỹ, nguyên Tổng biên tập Tạp chí Sông Hương trong Hội thảo nhân kỷ niệm 300 năm Phú Xuân do Thành ủy và UBND thành phố Huế tổ chức cuối 1987.
Kinh thành Huế năm 1875 - Nguồn: wikipedia
TÔ NHUẬN VỸ
Trong cuộc hội thảo kỷ niệm đầy ý nghĩa và có nhiều bản tham luận công phu này, chúng tôi chỉ xin phép được phát biểu 3 suy nghĩ nhỏ và ngắn.
Thứ nhất: Dù thời gian hoạt động còn rất ngắn ngủi và sự hạn chế ngặt nghèo của số trang tạp chí, qua 28 số, ngoài 51 bài thơ, 46 hồi ký bút ký truyện ngắn và gần 20 tác phẩm nghệ thuật sáng tác về Huế, Sông Hương đã đăng 86 bài nghiên cứu trao đổi, giới thiệu về truyền thống rực rỡ của nền văn hóa đầy sắc thái của Phú Xuân - Huế chúng ta. Chúng tôi mong muốn truyền tới người đọc - người đọc thưởng thức và người đọc có trách nhiệm - một chứng minh: Từ ngày khai sinh, Phú Xuân - Huế chưa bao giờ không là một trung tâm. Trung tâm của một cõi, trung tâm của một miền trung tâm của một nước, trung tâm của một vùng và bây giờ là trung tâm của một tỉnh! Trong quá khứ, về nhiều mặt các cánh sáng của ngôi sao trung tâm này đều đã tỏa ánh sáng rực rỡ. Không thể có một đất nước anh hùng nếu không có những người anh hùng - không thể có một nền văn hóa mà nhất là nền văn hóa phong phú nếu không có những trung tâm văn hóa và nhất là những trung tâm văn hóa có sắc thái. Không thể có! Nguyễn Tuân, trong những ngày cuối cùng của cuộc sống và cuộc đời sáng tác đầy tư cách và đầy lượng của mình, đã viết một bài Sông Hương với một luận đề nghi vấn phủ định đầy tự hào của một trái tim yêu nước nhiệt thành và tỉnh táo: Sự nghiệp phát triển văn hóa của Việt Nam nếu không có Huế thì sẽ ra sao?
Với tất cả lòng trung thực của phong cách đổi mới cho tôi nói, một điều canh cánh: Từ ngày khai sinh tới nay, chưa có lúc nào mà thực tế vị thế của Huế - trong tương quan một vùng, một miền, một nước - nó lại có một vị trí khiêm nhượng đến lu mờ như hiện nay. Còn không ít người chưa hiểu biết truyền thống sâu thẳm của Huế trong quá trình phát triển Tổ quốc chúng ta. Hoặc có hiểu mà chưa biết. Hoặc biết mà chưa hiểu hoặc hiểu biết mà không có khả năng hành động. Hoặc hành động nhưng không hiểu biết. Nghe ra thì phản logic nhưng đó là một thực tế. Tất cả dù vô tình hay cố ý -đang thực tế góp tay cùng thời gian và gió mưa, đẩy lùi Phú Xuân
Huế vào một nơi chốn kính cẩn nhưng xa xôi, vẫn được nhắc tới như một điển tích cần thiết, nhưng vẫn chỉ là một điển tích, mọi hành động và dự án xứng đáng gần như là một cái gì xa xỉ. Dù biện minh thế nào cuối cùng cũng không thể chối cãi là, đó là một sự xua đẩy truyền thống, do sự sơ suất và kém cỏi của hiểu biết. Cả sự "khiêm tốn nhỏ nhẹ" khi nói tới truyền thống ấy tới mức thì thầm, đều xa lạ không những với khoa học mà còn xa lạ với phạm trù yêu nước và dũng khí. Truyền thống phải được nói to phải được phát huy, phải có vị trí tương xứng và, cuối cùng, phải hành động, mới giữ được nó.
Thứ hai: Để tiến đến có một chiến lược bảo giữ, phát huy truyền thống văn hóa Phú Xuân-Huế lên một bước cao mà hiện nay còn gặp rất nhiều khó khăn trở ngại, trước hết chúng tôi đề nghị thành phố Huế chủ động bảo trợ một số công trình nghiên cứu quan trọng về lịch sử, văn hóa, văn học nghệ thuật của Phú Xuân-Huế. Sự bảo trợ này thể hiện trên hai phương diện:
+ Phải có quỹ bảo trợ. Bằng mọi cách để có quỹ này, với số tài chính đáng kể. Quỹ hoạt động dưới sự chỉ đạo trực tiếp của chủ tịch ủy ban nhân dân thành phố, có Hội đồng bảo trợ và Ban điều hành có đủ trình độ và khả năng.
- Bảo trợ, khuyến khích những phương pháp nghiên cứu, những cách nhìn mới mẻ, mạnh dạn, khuyến khích đặt vấn đề và tranh luận các vấn đề đã đang đặt ra khi nghiên cứu những sự kiện, vấn đề, di sản của quá khứ trên vùng đất này. Bởi vì, suốt gần bốn thế kỷ qua, mảnh đất này liên tiếp là mảnh đất chính yếu hoặc thuộc hàng chính yếu của những cuộc tranh chấp, đối đầu lớn và phức tạp của Việt Nam: Giai đoạn mở nước đi về phía Nam, giai đoạn Trịnh Nguyễn, giai đoạn oanh liệt nhưng ngắn ngủi của Quang Trung và tiếp đó, từ đây chứng kiến và gánh chịu ách đô hộ thê lương hàng trăm năm của thực dân Pháp, sự tái cắt chia và cuộc chiến đấu quyết liệt, sống còn thời chống Mỹ... bốn thế kỷ chứa đựng, chứng kiến những chiến công oanh liệt nhất nhưng cũng đầy những sự kiện vấn đề phức tạp nhất trong suốt quá trình tồn tại 4000 năm của Tổ quốc Việt Nam trên các lĩnh vực lịch sử, văn hóa, xã hội. Chúng ta đã có những thành tựu đáng kể trong nghiên cứu quá khứ của Phú Xuân-Huế. Nhưng hàng loạt vấn đề lớn chưa được đặt ra hoặc chỉ mới bắt đầu, hoặc đã có kết luận nhưng chủ yếu vẫn là kết quả của cách nhìn nhận một chiều, thậm chí một chiều cách đây 20 - 30 năm, trên cơ sở tài liệu nghèo nàn và thậm chí với những nhận thức khoa học hạn chế tới mức khó chấp nhận được.
Không ít đề tài có tính vấn đề, cần sự phân tích tế nhuyễn linh hoạt mới có thể thấu đáo như: Bối cảnh lịch sử và hành động chống Pháp của một số nhà vua yêu nước; thành tựu và hạn chế chính sách kinh tế xã hội của các vua Nguyễn; cuộc đấu tranh giữa phái chủ chiến và chủ hòa và sự phức tạp của một số nhân vật lịch sử như Nguyễn Văn Tường, Phan Thanh Giản, thậm chí cả Tự Đức... Nghệ thuật Nguyễn - thể hiện trên tạo hình và kiến trúc - là sao chép, bảo thủ hay năng động, sáng tạo; những yếu tố ưu tú của văn hóa Đại Việt và văn hóa Chàm trong quá trình hình thành sắc thái Văn hóa Phú Xuân; thái độ của tầng lớp nho sĩ trí thức Huế trước và sau biến động Thất thủ Kinh đô... Chúng tôi nói, phải bảo trợ và khuyến khích những cách nhìn mới, mạnh mẽ khi nghiên cứu về quá khứ, bởi vì cách nhìn cũ kỹ, một chiều khô cứng và rốt cuộc là giản đơn, không thể đủ ánh sáng chiếu rọi vào những nơi chốn khúc khuỷu sâu xa của lịch sử, và chúng ta đã có không ít công trình như thế. Thời gian mười hai năm qua, mức độ đậm đặc của cách nhìn này có loãng ra cùng với sự cởi mở nhận thức của đất nước. Tuy nhiên, vẫn đang tồn tại ở đây, một cách nhìn khô cứng, thiếu linh hoạt: đã là anh hùng dân tộc thì chỉ có ưu điểm, chỉ tập trung khai thác và viết về thành tựu và ngược lại. Một số nhà nghiên cứu có hiểu biết tinh tế và linh hoạt nhưng hình như vẫn còn né tránh những vấn đề phức tạp. Những bài như của Giáo sư Trần Quốc Vượng trên Sông Hương số 26 lần đầu phát biểu - dù còn ở mức phác thảo - về yếu tố tích cực thuộc phía Nguyễn khi li khai (thời Trịnh Nguyễn) còn hiếm trong thái độ nghiên cứu của chúng ta (tôi muốn nói tới cách nhìn, chưa bàn tới sự đúng sai của vấn đề). Cổ vũ được một cách nhìn mới mẻ để từ đó có một số công trình có giá trị về giai đoạn lịch sử ấy, không những để lại cho lâu dài, mà thực sự sẽ có tác dụng trực tiếp không nhỏ trong sự phân tích, đúng đắn thấu đáo xã hội, con người, thành tựu văn hóa của thành phố suốt ba chục năm dưới ách thống trị của các chủ đề thực dân cũ tiếp đến chủ nghĩa thực dân mới.
Thứ ba: Chúng ta nghiên cứu, thảo luận, phát biểu về quá khứ cũng là để cho Huế hôm nay, để cho Huế ngày mai. Cũng với mong muốn ấy sau một thời gian nghiên cứu tìm hiểu tình hình cách đây hai ngày, tạp chí Sông Hương đã có một cuộc tọa đàm hết sức bổ ích với tập thể Thường vụ Thành ủy Huế và vấn đề đưa ra đã được kết luận thống nhất mạnh mẽ: Phát huy dân chủ là vấn đề hàng đầu của thành phố Huế hiện nay.
Hôm nay có mặt ở đây đông đảo những vị hiểu biết sâu sắc về Huế, những vị có tấm lòng đầy tâm huyết với Huế và những vị có trách nhiệm lẫn quyền hạn lớn đối với sự phát triển của Huế, cho nên, cho phép chúng tôi lợi dụng cơ hội này để phát biểu bước đầu một suy nghĩ khác rất có thể là không hoàn toàn thích hợp với chủ đề cuộc hội thảo kỷ niệm này. Mong quý vị thông cảm, hỷ xả cho.
Đó là vị trí văn hóa - du lịch trong chiến lược phát triển Huế nói chung và trong chiến lược phát triển kinh tế nói riêng của thành phố Huế.
Trước đây, nơi này nơi kia, trong chúng tôi đã từng có những ý kiến được phát biểu, những bài viết được đăng tải về vấn đề này, chỉ ở mức như biểu lộ chính kiến. Thường những ý kiến ấy được tiếp nhận hờ hững hoặc tốt hơn một chút là một cái vỗ vai với vẻ thông cảm cho "một tâm huyết nặng phần ảo tưởng". Chúng tôi hoàn toàn không dị ứng với những thái độ như vậy, bởi vì đó cũng là một thực tế cần phải nhìn nhận như mọi thực tế khác.
Sau một thời gian tìm hiểu, nghiên cứu các luận chứng, các kế hoạch liên quan của thành phố và tỉnh, sau khi tìm hiểu kinh nghiệm thành công và thất bại của công tác du lịch ở một số trung tâm trong nước và của tổng cục du lịch Việt Nam như công việc đã qua của du lịch Huế và Bình Trị Thiên, sau khi tham khảo ý kiến của một số trí thức và nhà chuyên môn trong nước và Việt Kiều cùng một số đồng chí lãnh đạo Trung ương... cho dù đã cố gạt đi sự xúc động nhạy cảm của nghệ sĩ thường được coi là thuộc phạm trù thăng hoa hơn là thuộc phạm trù chính xác, ấn tượng đọng lại trong suy nghĩ, đọng lại trong lòng chúng tôi vấn đề là một lo lắng lớn, một băn khoăn lớn. Với tinh thần đổi mới, cho phép chúng tôi được nói thật: Kế hoạch phát triển Huế, chí ít là cho đến năm 2010, chưa chứng minh được, và chưa thể hiện được sự hiểu biết đúng đắn sức mạnh của văn hóa du lịch Huế, kể cả trên khía cạnh lợi ích kinh tế.
Chúng tôi sẽ phát biểu quan điểm và sự chứng minh này, với quý vị, với tỉnh với Trung ương, trong một số báo trọn vẹn và trong một cuộc hội thảo có sự tham gia đầy tâm huyết của nhiều cộng tác viên trong tỉnh, trong nước và ngoài nước sắp tới. Ở diễn đàn chuyên đề kỷ niệm hôm nay, chúng tôi chỉ xin có một đề nghị: Các đồng chí lãnh đạo thành phố, bằng tất cả trách nhiệm với thành phố thân yêu, với tất cả sự nhạy cảm và tự tin mạnh mẽ hiện nay, hãy rà xét lại toàn bộ hướng phát triển chiến lược này.
T.N.V
(SH30/04-88)
HÀ MINH ĐỨC Ký Sau chặng đường dài, vượt qua nhiều đồi núi của vùng Quảng Bình, Quảng Trị, khoảng 3 giờ chiều ngày 25/9/2003, đoàn chúng tôi về đến thành phố Huế. Xe chạy dọc bờ sông Hương và rẽ vào khu vực trường Đại học Sư phạm Huế. Anh Hồ Thế Hà, Phó Chủ nhiệm khoa Văn; chị Trần Huyền Sâm, giảng viên bộ môn Lý luận văn học cùng với các em sinh viên ra đón chúng tôi. Nữ sinh mặc áo dài trắng và tặng các thầy những bó hoa đẹp.
BĂNG SƠN Tuỳ bútDòng sông Hồng Hà Nội là nguồn sữa phù sa và là con đường cho tre nứa cùng lâm sản từ ngược về xuôi. Dòng sông Cấm Hải Phòng là sông cần lao lam lũ, hối hả nhịp tầu bè. Dòng sông Sài Gòn của thành phố Hồ Chí Minh là váng dầu ngũ sắc, là bóng cần cẩu nặng nề, là những chuyến vào ra tấp nập... Có lẽ chỉ có một dòng sông thơ và mộng, sông nghệ thuật và thi ca, sông cho thuyền bềnh bồng dào dạt, sông của trăng và gió, của hương thơm loài cỏ thạch xương bồ làm mê mệt khách trăm phương, đó là sông Hương xứ Huế, là dòng Hương Giang đất cố đô mấy trăm năm, nhưng tuổi sông thì không ai đếm được.
PHAN THUẬN THẢO Chiều chiều trước bến Vân Lâu Ai ngồi, ai câu, ai sầu, ai thảm, Ai thương, ai cảm, ai nhớ, ai trông. Thuyền ai thấp thoáng bên sông, Đưa câu Mái đẩy chạnh lòng nước non. (Ưng Bình Thúc Giạ)
LÃNG HIỂN XUÂNChẳng hiểu sao, từ thuở còn thơ ấu, tôi đã có một cảm nhận thật mơ hồ nhưng cũng thật xác tín rằng: Chùa chính là nơi trú ngụ của những ông Bụt hay bà Tiên và khi nào gặp khó khăn hay đau khổ ta cứ đến đó thì thế nào cũng sẽ được giải toả hay cứu giúp!
BÙI MINH ĐỨCNói đến trang phục của các Cụ chúng ta ngày xưa là phải nhắc đến cái búi tó và cái khăn vấn bất di bất dịch trên đầu các Cụ. Các Cụ thường để tóc dài và vấn tóc thành một lọn nhỏ sau ót trông như cái củ kiệu nên đã được dân chúng đương thời gọi là “búi tó củ kiệu”. Ngoài cái áo lương dài, cái dù đen và đôi guốc gỗ, mỗi khi ra đường là các Cụ lại bối tóc hình củ kiệu và vấn dải khăn quanh trên đầu, một trang phục mà các cụ cho là đứng đắn nghiêm trang của một người đàn ông biết tôn trọng lễ nghĩa. Trang phục đó là hình ảnh đặc trưng của người đàn ông xứ ta mãi cho đến đầu thế kỷ thứ 20 mới bắt đầu có nhiều biến cải sâu đậm
MAO THUỶ THANH (*)Tiếng hát và du thuyền trên sông Hương là nét đẹp kỳ thú của xứ Huế. Trên sông Hương có hai chiếc cầu bắc ngang: cầu Phú Xuân và cầu Trường Tiền nhưng trước đây người dân Huế thường có thói quen đi đò ngang. Bến đò ở dưới gốc cây bồ đề cổ thụ, nằm đối diện với trường Đại học Sư phạm Huế. Một hôm, tôi và nữ giáo sư Trung Quốc thử ngồi đò sang ngang một chuyến. Trên đò đã có mấy người; thấy chúng tôi bước xuống cô lái đò áp đò sát bến, mời chúng tôi lên đò.
VÕ NGỌC LANBuổi chiều, ngồi trên bến đò Quảng Lợi chờ đò qua phá Tam Giang, tôi nghe trong hư vô chiều bao lời ru của gió. Lâu lắm rồi, tôi mới lại được chờ đò. Khác chăng, trong cảm nhận tôi lại thấy bờ cát bên kia phá giờ như có vẻ gần hơn, rõ ràng hơn.
HỒNG NHUTôi vẫn trộm nghĩ rằng: Tạo hóa sinh ra mọi thứ: đất, nước, cây cỏ chim muông... và con người. Con người có sau tất cả những thứ trên. Vì vậy cỏ cây, đất nước... là tiền bối của con người. Con người ngoài thờ kính tổ tiên ông bà cha mẹ, những anh hùng liệt sĩ đã mất... còn thờ kính Thần Đất, Thần Nước, Thần Đá, Thần Cây...là phải đạo làm người lắm, là không có gì mê tín cả, cho dù là con người hiện đại, con người theo chủ nghĩa vô thần đi nữa! Chừng nào trên trái đất còn con người, chừng đó còn có các vị thần. Các vị vô hình nhưng không vô ảnh và cái chắc là không vô tâm. Vì sao vậy? Vì các vị sống trong tâm linh của con người, mà con người thì rõ ràng không ai lại tự nhận mình là vô tâm cả.
MẠNH HÀTôi không sinh ra ở Huế nhưng đã có đôi lần đến Huế, khác với Hà Nội hay Thành phố Hồ Chí Minh, Huế có nét trầm lắng, nhẹ nhàng, mỗi lần khi đến Huế tôi thường đi dạo trên cầu Trường Tiền, ngắm dòng Hương Giang về đêm, nghe tiếng ca Huế văng vẳng trên những chiếc thuyền rồng du lịch thật ấn tượng. Cho đến nay đã có biết bao bài thơ, bài hát viết về Huế thật lạ kỳ càng nghe càng ngấm và càng say: Huế đẹp, Huế thơ luôn mời gọi du khách.
VÕ NGỌC LANNgười ta thường nói nhiều về phố cổ Hội An, ít ai biết rằng ở Huế cũng có một khu phố cổ, ngày xưa thương là một thương cảng sầm uất của kinh kỳ. Đó là phố cổ Bao Vinh. Khu phố này cách kinh thành Huế chừng vài ba cây số, nằm bên con sông chảy ra biển Thuận An. Đây là nơi ghe, thuyền trong Nam, ngoài Bắc thường tụ hội lại, từ cửa Thuận An lên, chở theo đủ thứ hàng hoá biến Bao Vinh thành một thương cảng sầm uất vì bạn hàng khắp các chợ trong tỉnh Thừa Thiên đều tập trung về đây mua bán rộn ràng.
NGUYỄN XUÂN HOATrước khi quần thể di tích cố đô Huế được công nhận là di sản văn hoá thế giới, thành phố Huế đã được nhiều người nhìn nhận là một mẫu mực về kiến trúc cảnh quan của Việt Nam, và cao hơn nữa - là “một kiệt tác bài thơ kiến trúc đô thị” như nhận định của ông Amadou Mahtar M”Bow - nguyên Tổng Giám đốc UNESCO trong lời kêu gọi tháng 11-1981.
DƯƠNG PHƯỚC THU Bút kýXứ Thuận Hóa nhìn xa ngoài hai ngàn năm trước, khi người Việt cổ từ đất Tổ Phong Châu tiến xuống phía Nam, hay cận lại gần hơn bảy trăm năm kể từ ngày vua Trần Anh Tông cho em gái là Huyền Trân Công chúa sang xứ Chàm làm dâu; cái buổi đầu ở cương vực Ô Châu ác địa này, người Việt dốc sức tận lực khai sông mở núi, đào giếng cày ruộng, trồng lúa tạo vườn, dựng nhà xây đình, cắm cây nêu trấn trị hung khí rồi thành lập làng xã.
TRƯƠNG THỊ CÚCSông Hương, một dòng sông đẹp, sôi nổi với những ghềnh thác đầu nguồn, mềm mại quàng lấy thành phố như một dải lụa, hài hoà tuyệt diệu với thiên nhiên xinh đẹp và hệ thống thành quách, cung điện, lăng tẩm, đền chùa; với hàng trăm điệu hò, điệu lý; với những ngày hội vật, hội đua trải, đua ghe; với mảnh vườn và con người xứ Huế, là nguồn cảm hứng vô tận của người nghệ sĩ, thu hút sự say mê của nhiều khách phương xa. Không những là một dòng sông lịch sử, sông Hương còn là không gian văn hoá làm nẩy sinh những loại hình nghệ thuật, những hội hè đình đám, là không gian của thi ca, nhạc hoạ, là dòng chảy để văn hoá Huế luân lưu không ngừng.
TÔN NỮ KHÁNH TRANG Khi bàn về văn hoá ẩm thực, người ta thường chú trọng đến ẩm thực cung đình, hay dân gian, và chủ yếu đề cập đến sinh hoạt, vai trò, địa vị xã hội... hơn là nghĩ đến hệ ẩm thực liên quan đến đời sống lễ nghi.
TRƯƠNG THỊ CÚC• Bắt nguồn từ những khe suối róc rách ở vùng núi đại ngàn A Lưới - Nam Đông giữa Trường Sơn hùng vỹ, ba nhánh sông Tả Trạch, Hữu Trạch và nguồn Bồ đã lần lượt hợp lưu tạo thành hệ thống sông Hương, chảy miên man từ vùng núi trung bình ở phía đông nam A Lưới, nam Nam Đông, băng qua những dãy núi đồi chập chùng ở Hương Thuỷ, Hương Trà, Phong Điền rồi xuôi về đồng bằng duyên hải, chảy vào phá Tam Giang để đổ nước ra biển Đông.
NGUYỄN KHẮC MAIỞ xứ Huế có những tên làng quê mà nghĩa của chúng vẫn còn là sự ám ảnh kiếm tìm giải thích, chắc chắn chúng phải có nghĩa cụ thể nào đó. Người xưa không bao giờ đặt tên một vùng đất mà chẳng có nghĩa gì cả cứ như là người Mã Lai họ đặt tên vùng đất kinh đô cũng lần ra cái nghĩa đó là “cửa sông bùn lầy” (Kua-la-lăm-pua). Những cái tên như Kim Long, An Hoà, Dương Xuân, Phú Tài, Phú Mậu thì những ai có chút hiểu biết chữ Hán đều có thể lần tìm ý nghĩa. Nhưng có những cái tên làng quê thật khó đoán được cái nghĩa của chúng.
BÙI MINH ĐỨC Ngày nay, hễ nói đến đường để nấu chè là ai ai ở Huế cũng nghĩ đến đường cát trắng, đến thứ đường bột trắng tinh đã được tinh lọc do các nhà máy đường tân tiến sản xuất. Có người cũng còn nhớ đến đường phèn để chưng với chanh ăn khi bị ho, hoặc đường tinh thể là thứ đường đặc biệt màu vàng dùng để uống với cà phê cho thêm phần đậm đà. Nhưng chẳng ai có thể nhắc đến chiếc bánh đường đen ở Huế của thuở nào.
NGUYỄN TIẾN VỞNKinh Dịch (Chu Dịch) là sách về sự biến đổi. Dịch, nói gọn lại là biến đổi. Tinh thần xuyên suốt của Kinh Dịch là quy luật chuyển dời, biến hoá của vạn vật trong cõi trời đất. Mọi vật, bất kể to lớn như vũ trụ, hay nhỏ nhoi như các nguyên tử, đều không bao giờ đứng yên. Mọi sự, từ chuyện người có thể biết đến chuyện chỉ trời đất biết, cũng vận động biến hoá khôn lường.
PHAN THUẬN AN Dạ thưa xứ Huế bây giờ,Vẫn còn núi Ngự bên bờ sông Hương. (Bùi Giáng)
NGUYỄN VĂN THỊNHCũng như trên cả nước, trước cách mạng tháng Tám, làng (tên gọi chữ Hán là xã), ở Thừa Thiên Huế là một đơn vị cơ bản trong tổ chức hành chính của các vương triều.