ĐỖ QUYÊN
“Hãy đánh chết nó đi, nhà phê bình văn học - cái thằng khốn!”
(J.W. Goethe)
A. MỘT MỐC “CHUẨN” CHO THỜI KỲ HẬU ĐỔI MỚI?
Hậu Đổi mới. Đã có nhiều cố gắng từ các nhà nghiên cứu lý luận và văn học sử đặng tìm ra đường biên cho giai đoạn đương đại này của văn học Việt, tính từ sau mốc lịch sử và mạnh mẽ 1986 - 1989 của thời kỳ Đổi mới. Song, dường như tới nay chưa có “cột mốc” nào chuẩn xác và dễ đồng thuận?1
Chúng ta thử cất công dùng 5 loại phân kỳ để tạo “khu vực biên giới” giữa 2 giai đoạn Đổi mới (1986 - 1989) và hậu Đổi mới (từ khoảng giữa thập niên 1990 đến nay).
+ Phân kỳ kỹ thuật - công nghệ: Cuối năm 1997, Internet đã tới Việt Nam như mang lại đôi hài vạn dặm, đưa đất nước vào xa lộ toàn cầu hóa và giao lưu văn hóa - xã hội quốc tế.
+ Phân kỳ chính trị - xã hội: Giữa năm 1995, nước CHXHCN Việt Nam gia nhập Hiệp hội các nước Đông Nam Á ASEAN như một biểu hiện bình thường hóa quốc gia khi “muốn làm bạn với tất cả các nước”, “đa dạng hóa quan hệ”, “chủ động hội nhập khu vực và thế giới”…
+ Phân kỳ tư tưởng: “(…) vào tháng 7/1990, Ban Bí thư Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam thông qua chỉ thị ‘Về một số vấn đề trong công tác quản lý văn học, nghệ thuật hiện nay’, đây là văn kiện ấn định toàn bộ đời sống văn học ở CHXHCN Việt Nam. (…) Với sự xuất hiện văn kiện này, trong văn học Việt Nam trên thực tế đã kết liễu giai đoạn mà nhà văn nổi tiếng Nguyễn Đình Thi gọi là giai đoạn ‘khủng hoảng’. Bắt đầu chuyển sang thời ‘dân chủ hóa một cách có lãnh đạo’ xã hội Việt Nam.”2
+ Phân kỳ cơ cấu - tổ chức: Đầu năm 1995, Hội Nhà văn Việt Nam họp Đại hội lần 5, bầu ra (và sau bổ sung) Ban Chấp hành gồm 7 người với sự phân công Tổng Thư ký - nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm, Phó Tổng Thư ký thường trực - nhà thơ Hữu Thỉnh. Trong Ban Chấp hành mới đó, không còn nhà văn Nguyên Ngọc cùng một số vị thường được xem là “phe Đổi mới”.
+ Phân kỳ văn học - văn học sử: Có thể xem các thời điểm khởi phát hậu Đổi mới trùng với quãng thời gian mà đề tài Hậu hiện đại trên thế giới đến được cộng đồng văn chương Việt.
Ở trong nước, ngay từ năm 1991 trên tạp chí Văn Học đã có bài dịch Vài suy nghĩ về cái gọi là tiểu thuyết hậu hiện đại của A. Blach; năm 1997 có bài dịch Về chủ nghĩa hậu hiện đại (J. Verhaar). Tới năm 2000 tạp chí Nhà Văn có bài viết Chủ nghĩa hậu hiện đại của Phương Lựu. (Xem: Nguyễn Hưng Quốc3, và Phan Tuấn Anh4).
Ở ngoài nước, Tạp chí Thơ trong 2 năm 1997 - 1998 có 2 bài dịch của Phan Tấn Hải là Giới thiệu thơ hậu hiện đại Hoa Kỳ (P. Hoover), và Chủ nghĩa hậu hiện đại và văn chương (S. Connor). Còn Tạp chí Việt số đầu năm 2000 có tiểu luận Viết, từ hiện đại đến hậu hiện đại của Hoàng Ngọc-Tuấn. Đặc biệt, như một trong vài người đi đầu quảng bá và giới thiệu, Nguyễn Hưng Quốc từng vài lần nói về chủ nghĩa hậu hiện đại từ năm 1996 trong 2 cuốn sách Võ Phiến, Thơ, v.v... và v.v... và đáng kể là cuốn tiểu luận Văn học Việt Nam, từ điểm nhìn h(ậu h)iện đại in năm 2000.5
B. MỘT DANH SÁCH6 NHÌN NHẬN NHANH PHÊ BÌNH THƠ VIỆT TRONG THỜI HẬU ĐỔI MỚI
Riết róng mà tương đối, chúng ta hãy xem xét mức độ sau đây: trong các công việc định giá, hướng dẫn văn học thì người phê bình có chức phận (nghề nghiệp), người bình luận có bổn phận (cơ duyên), và người giới thiệu có thẩm quyền (nhiệm vụ) về đối tượng mà họ quan tâm.
Theo đó, vài năm qua chúng tôi thu thập tài liệu và xây dựng quan niệm cho một Bảng sơ lược tiếp nhận (nhận diện, nhận dạng, nhận giọng, nhận giới) và phân loại (thế hệ, phạm vi, thể loại, khuynh hướng) các tác giả Việt Nam hiện đại và đương đại trong lĩnh vực phê bình, bình luận, giới thiệu thơ Việt và thế giới. (Ở đây gọi chung là phê bình).
Phạm vi về thời cuộc và niên đại là thời kỳ hậu Đổi mới (từ khoảng giữa thập niên 1990 đến nay).
Xin dẫn ra trước nơi đây một danh sách sơ bộ và tóm tắt về những tác giả Việt phê bình thơ ở trong và ngoài nước có tác phẩm, bài vở, diễn đàn với ảnh hưởng nhất định (tạo dư luận nơi độc giả, gây ấn tượng giữa văn giới…) trong chừng 20 năm qua theo phân loại thế hệ/độ tuổi.
· 1910s: Hoàng Như Mai (sách), v.v…
· 1920s: Lê Đình Kỵ (sách), Trần Ngọc Ninh, Đỗ Đức Hiểu (sách), Võ Phiến (sách), Khổng Đức, Huỳnh Sanh Thông, Lê Đạt (sách), Mai Thảo, v.v…
·1930s: Hoàng Ngọc Hiến, Dương Tường, Vân Long (sách), Trần Văn Tích, Phan Cự Đệ (sách), Văn Tâm (sách), Hồ Sĩ Vịnh (sách), Hà Minh Đức (sách), Thi Vũ (sách), Đặng Hiển, Phong Lê (sách), Hoài Anh (sách), Diễm Châu, Hoàng Ngọc Biên, Nguyễn Đăng Thường, Viên Linh, Nguyễn Huệ Chi (sách), Nguyễn Tiến Văn, Trần Văn Nam (sách), v.v…
· 1940s: Đặng Tiến (sách), Vũ Quần Phương (sách), Trần Đình Sử (sách), Nguyễn Vũ Tiềm, Trúc Thông, Yến Nhi, Đào Trung Đạo, Gia Dũng, Phạm Tiến Duật (sách), Nguyễn Nguyên Bảy (sách), Mai Quốc Liên (sách), Bằng Việt (sách), Luân Hoán, Ngô Thảo (sách), Mã Giang Lân (sách), Đặng Phùng Quân (sách), Vương Trí Nhàn, Du Tử Lê (sách), Hữu Thỉnh (sách), Hoàng Hưng (sách), Thái Doãn Hiểu (sách), Anh Ngọc, Kiều Văn (sách), Nam Dao, Trần Ninh Hồ, Vương Trọng (sách), Thụy Khuê (sách), Trần Nhuận Minh (sách), Vũ Duy Thông, Trần Trương, Ý Nhi, Ngô Thế Oanh, Ngô Nguyên Nghiễm (sách), Vũ Văn Sỹ, Ngô Văn Tao, Lại Nguyên Ân (sách), Lò Ngân Sủn (sách), Hồng Diệu (sách), Thái Kim Lan, Phạm Đình Ân, Khế Iêm (sách), Thanh Thảo, Văn Chinh (sách), Trần Mạnh Hảo (sách), Nguyễn Ngọc Thiện (sách), Lê Quang Trang (sách), Nguyễn Trọng Tạo (sách), Dư Thị Hoàn, Anh Chi, Kim Chuông, Nguyễn Đức Mậu, Đỗ Lai Thúy (sách), Nguyễn Duy, Trịnh Thanh Sơn (sách), Vũ Nho, Nguyễn Văn Lưu (sách), Đặng Văn Sinh, Trần Nghi Hoàng, Nguyễn Thụy Kha, Đỗ Hoàng, Mai Văn Hoan, Bùi Công Thuấn, Nguyễn Hoàng Sơn (sách), Vũ Bình Lục, Lê Thành Nghị (sách), Đường Văn, Hoàng Liên (sách), Nguyễn Văn Long (sách), v.v…
· 1950s: Lã Nguyên (sách), Khuất Bình Nguyên, Nguyễn Huy Thiệp (sách), Đỗ Ngọc Yên, Phan Nguyên, Phan Trọng Thưởng (sách), Bùi Việt Thắng, Phạm Quang Trung (sách), Đinh Quang Tốn (sách), Nguyễn Vy- Khanh (sách), Chân Phương, Nguyễn Văn Dân (sách), Đỗ Minh Tuấn (sách), Ngu Yên (sách), Võ Chân Cửu, Triệu Lam Châu, Trần Hoàng Vy, Nguyễn Anh Tuấn, Nguyễn Tà Cúc, Ngô Vĩnh Bình, Lý Hoài Thu, Bùi Vĩnh Phúc (sách), Lê Vũ, Lê Thị Huệ, Đào Duy Hiệp, Nguyên An, Nguyễn Việt Chiến (sách), Hữu Đạt, Thế Dũng, Nguyễn Hồng Nhung, Đoàn Đức Phương (sách), Huỳnh Như Phương, Trần Quang Quý, Thu Tứ (sách), Hồ Thế Hà, Đỗ Kh., Tâm Nhiên, Đặng Huy Giang, Nguyễn Đức Tùng (sách), Mai Văn Phấn, Đỗ Quyên, Phạm Xuân Nguyên (sách), Hoàng Ngọc-Tuấn (sách), Nguyễn Sĩ Đại, Nguyễn Hữu Quý, Inrasara (sách), Thường Quán, Nguyễn Quang Thiều, Nguyễn Hưng Quốc (sách), Nguyễn Hoàng Đức, Trần Đăng Khoa (sách), Lưu Khánh Thơ (sách), Chu Văn Sơn, Nguyễn Hòa (sách), Văn Giá, Trần Hoài Anh (sách), Nguyễn Hữu Sơn (sách), Nguyễn Thanh Tú, Đông La (sách), Phạm Kỳ Đăng, Nguyễn Lương Ngọc, Hiền Nguyễn, Nguyễn Đỗ, v.v…
- 1960s: Dương Kiều Minh, Nguyễn Chí Hoan, Phạm Thị Hoài, Đỗ Trọng Khơi, Nguyễn Đăng Điệp (sách), Thận Nhiên, Hồng Thanh Quang, Ngô Tự Lập (sách), Chu Thị Thơm, Đinh Linh, Trần Đình Thu (sách), Trần Ngọc Tuấn, Nguyễn Huy Thông, Nguyễn Bình Phương, Đặng Thân (sách), Đoàn Cầm Thi (sách), Phan Nhiên Hạo, Phạm Khải (sách), Lê Đình Nhất-Lang, v.v…
· 1970s: Nguyễn Thanh Sơn (sách), Thiên Sơn, Nguyễn Thanh Tâm (sách), Nguyễn Hữu Hồng Minh, Trần Văn Toàn, Phùng Văn Khai, Nguyễn Thụy Anh, Hoài Nam (sách), Mai Bá Ấn, Khánh Phương (sách), Trần Vũ Long, Văn Bảy/Lý Đợi, Lê Thiếu Nhơn (sách), Lê Hồ Quang (sách), v.v…
· 1980s: Cao Việt Dũng, Đoàn Minh Tâm, Hoàng Đăng Khoa, Mai Anh Tuấn, Trần Thiện Khanh, Hoàng Thụy Anh, Đoàn Ánh Dương (sách), Ngô Hương Giang (sách), Nhã Thuyên, v.v…
Như thế, với dung sai cho phép, con số cập nhật đang là chẵn 200 tác giả ở độ tuổi trong 8 thập niên.
Nhiều nhất là 67 vị được sinh hạ trong kỷ nguyên hậu Thơ mới, thuộc vào thời kỳ Cách mạng mùa Thu, tức là thế hệ 4X.
Kỷ nguyên tiền Thơ mới còn gửi lại chút âm điệu của mình qua “Con khủng long lãng mạn cuối cùng” vừa qua đời 2 năm nay: Giáo-sư-thi-ca Hoàng Như Mai.
Kỷ nguyên toàn cầu hóa 8X mới chỉ tạm gửi vào đội ngũ này 9 nhà phê bình thơ - trẻ tuổi đời nhưng khá là cứng… cựa!
Có thể xem đây như một trong các danh sách nhìn nhận nhanh phê bình thơ Việt Nam trong thời hậu Đổi mới - cái thời vụ văn học đã và đang nở trên bàn tay ánh mắt mỗi chúng ta mà lại chẳng được chầm bập tương xứng.7
Với khả năng ít ỏi và tầm nhìn eo hẹp của một kẻ ở xa các trung điểm văn nghệ nước nhà hẳn sẽ phạm phải khiếm khuyết, chân thành cảm tạ mọi góp ý, chỉnh lý từ quý bạn đọc và bạn văn gần xa!(*)
Vancouver - cập nhật 10/1/2016
Đ. Q
(TCSH325/03-2016)
............................................
1. Ví dụ như một số nhận định dưới đây (với các nhấn mạnh của chúng tôi - Đ.Q):
- “Đổi mới trên mặt văn hóa ở Việt Nam thì được biết dưới tên Cởi mở, tương tự như chính sách Glastnost của Nga Xô. Quá trình này bắt đầu cùng với Đổi mới Kinh tế nhưng sau đó dừng lại trong thập niên 1990”. (Bách khoa toàn thư mở, vi.wikipedia.org).
- “(…) trong sự thoái trào của làn sóng Đổi mới và bối cảnh toàn cầu hóa, từ khoảng những năm 1990 đến nay.” (Nhã Thuyên, Đặng Thân, Phạm Xuân Nguyên; Tọa đàm “Những tiếng nói ngầm: thơ Việt Nam Hậu Đổi Mới”, vanchuongviet.org).
- “[…] thế hệ thơ có một định phận kì lạ, họ đã thổi làn gió mới vào khí hậu thơ Việt Nam. Nó đã thổi như thế suốt 15 năm… cho đến khi Internet xuất hiện, thì thơ Việt Nam mới dịch chuyển theo hướng khác hẳn! […] Hậu Đổi mới: Chuyển hướng, khi các Website văn chương cấp tập ra đời, cả trong lẫn ngoài nước. Tạm lấy mốc: 2001 để vạch một đường biên, dẫu mờ.” (Inrasara; Văn chương TP. Hồ Chí Minh thời hậu Đổi mới, khởi đầu cho một khởi đầu, 4phuong.net).
2. A. A. Sokolov; Văn hóa và văn học Việt Nam trong những năm đổi mới (1986 - 1996), Vân Trang dịch, talawas.org 25/5/2004. Nhận định của Nguyễn Đình Thi là từ bài báo Văn học Việt Nam, trăn trở người trong nghề, được in vào cuối năm 1996 như chú thích trong bài đã dẫn.
3. Nguyễn Hưng Quốc; Chủ nghĩa h(ậu h)iện đại và văn học Việt Nam, tienve.org.
4. Phan Tuấn Anh; H/ậu-ại hiện đại trong văn học Việt Nam - công viên những lối đi hai ngã rẽ, Tạp chí Sông Hương số 289 tháng 3/2013, tapchisonghuong.com.vn 29/3/2013.
5. Chú thích 3.
6. Trích và bổ sung từ bản đầy đủ (chưa công bố) của Lời bạt trong sách Thơ cần thiết cho ai, (Nguyễn Đức Tùng, Nxb. Hội Nhà văn, Hà Nội, 2015; vanchuongviet.org 8/8/2015). Có sửa chữa và viết thêm so với phiên bản 3/12/2015 đã đăng trên vanviet.info 1/1/2016.
7. Xét về độ dài hạn định và chu kỳ hoạt động, lướt lịch sử văn học Việt Nam hiện đại chúng tôi cả nghĩ khoảng thời gian trên dưới 2 thập niên là vừa đủ cho một giai đoạn/thời kỳ văn học Việt ra đời, phát triển và chấm dứt.
Để tạm kết thúc, nhân cơ hội mùa Xuân xin chuyện vãn bói văn qua 5 câu hỏi:
1) Giai đoạn sau-hậu-Đổi-mới sẽ mang tên gì?
2) Tức là, sự kiện/động lực chính trị, xã hội, văn hóa hay văn học nào của Việt Nam và quốc tế sẽ khiến văn học Việt sang chương hồi mới?
3) Liệu 4 sự kiện/vấn đề chính trị, xã hội, an ninh, văn hóa của đất nước ở tầm khu vực và quốc tế sau đây có thể có những ảnh hưởng: Hiệp định Đối tác kinh tế xuyên Thái Bình Dương TPP đã được ký kết tại New Zealand trong ngày 4/2/2016; Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ 12 diễn ra từ ngày 20 - 28/1/2016; Khủng hoảng Biển Đông vài năm qua; Sự tiến triển của xã hội Việt Nam?
4) Phải chăng thời kỳ sau-hậu-Đổi-mới rồi cũng sẽ hiện diện từ tốn như thời kỳ hậu Đổi mới?
5) Có thể dự báo ra sao về dòng Văn học Việt sau hậu Đổi mới: Đặc trưng văn chương? Tác giả: thế hệ, quan điểm, vùng miền, giới tính? Tác phẩm: khuynh hướng sáng tác, nội dung và hình thức nghệ thuật, thể loại? Tiếp nhận, phá bỏ, sáng tạo gì so với 2 dòng Văn học Đổi mới và hậu Đổi mới?
LGT: Anders Cullhed (sinh 1951) là giáo sư Văn học So sánh ở Đại học Stockholm, Thuỵ Điển. Ông viết luận án Tiden sòker sin ròst (Thời đại đang tìm kiếm tiếng nói) 1982 về nhà văn hiện đại Thuỵ Điển Erik Lindegren với tập thơ thời chiến Mannem utan vàg (Con người không lối đi) với một mối quan tâm đặc thù về sự tương quan của tập thơ này với chủ nghĩa hiện đại Pháp và Anh, với truyền thống văn học và với sự sụp đổ hệ thống tư tưởng đương đại gây ra do thế chiến thứ 2.
NGÔ MINH Xa Hà Nội (Nxb Văn học 2011), cuốn tiểu thuyết thứ 3 và tập văn xuôi thứ 7 của nhà văn Nhất Lâm vừa ra mắt bạn đọc đầu tháng 9-2011. Tôi đọc một mạch hết 334 trang sách. Cuốn sách đặt ra nhiều vấn đề thú vị về cuộc sống và thời cuộc rất đáng suy nghĩ, chiêm nghiệm.
NGUYỄN QUANG HUY Hình thù của văn học không thể đến từ cuộc sống; nó chỉ đến từ truyền thống văn học; và vì thế cơ bản là đến từ thần thoại. N. Frye
LGT: Tiểu thuyết Vùng lõm của nhà văn Nguyễn Quang Hà được giải nhì cuộc thi tiểu thuyết lần thứ 3 của Hội Nhà văn Việt Nam 2006 - 2010. Ngày 24 - 10 - 2011 Hội đã tổ chức tọa đàm tiểu thuyết Vùng lõm, Sông Hương xin giới thiệu bài tham luận của nhà văn Đỗ Ngọc Yên.
ĐẶNG TIẾN Thanh Tịnh là nhà văn có sự nghiệp dài hơn nửa thế kỷ, với số lượng trước tác dồi dào, đa dạng. Nhưng kỷ niệm bền chặt nhất mà ông để lại trong lòng người đọc là tập truyện đầu tay Quê Mẹ, 1941, với hình ảnh thơ mộng của làng Mỹ Lý và buổi tựu trường trong truyện Tôi đi học.
THÁI BÁ VÂN ĐỜI SỐNG VẬT THỂ VÀ ĐỜI SỐNG HÌNH TƯỢNG
THANH MẪN Tôi khóc những chân trời không có người bay Lại khóc những người bay không có chân trời. (Trần Dần)
NGUYỄN VĂN HẠNH Văn chương là một hiện tượng không ngừng vận động, không ngừng đổi mới, từ môi trường xã hội văn hóa này sang môi trường xã hội văn hóa khác, từ nhà văn này sang nhà văn khác.
L.T.S: Soutchat Sawatsri nhà thơ và viết truyện ngắn chủ bút báo "Thế giới sách vở" vừa là một nhà phê bình có uy tín ở Thái Lan. Trong bài "Thời đại và con người" đăng trên báo Pháp "Thế giới ngoại giao" năm 1983 Soutchat Sawatsri đã giới thiệu tóm tắt đầy đầy đủ các bước phát triển của văn học Thái Lan hiện đại.
NGUYỄN HỮU ĐÍNH Phan Huy Chú, tác giả «Lịch triều hiến chương loại chí», ở mục «Lễ táng sơn lăng», «Lễ nghi chí», viết «Ngọ Phong họ Ngô (1) nói: đời xưa thiên tử chết, bảy tháng mới chôn, chỗ đất chôn gọi là sơn lăng - Lăng đều có tên».
TRẦN HUYỀN SÂMGiản dị, nhưng lay động và ám gợi một cách siêu hình, nhà thơ sống ẩn dật Tomas Transtromer đã được Hội đồng Hàn lâm Thụy Điển vinh danh giải Nobel văn học 2011.> Những nét gạch xóa của lửa
NGUYỄN DƯ Mời các bạn đi… xem hát. Đúng hơn là xem chữ hát (h)… của tiếng Pháp. Lại chuyện Ăn cơm nhà vác ngà voi! Ngà voi còn nhẹ chán. Ngà mammouth cũng đành phải xông vào mà vác. Vác giùm cho… lịch sử, địa lí Việt Nam. Ủa! Trời đất! Đùa hay thật vậy?
TRẦN THỊ MỸ HIỀN Ngô Kha là một trong số ít những nhà thơ có số phận khá đặc biệt trên thi đàn Việt Nam. Sinh năm 1935 ở Thế Lại Thượng (thuộc thành phố Huế ngày nay), ông tốt nghiệp thủ khoa khóa 1 Đại học Sư Phạm Huế (1958 - 1959), tốt nghiệp Cử nhân Luật khoa (1962), sau đó dạy văn và giáo dục công dân ở các trường Quốc Học, Hàm Nghi, Nguyễn Du, Hưng Đạo ở Huế từ 1960 cho đến khi bị thủ tiêu vào 1973.
KHÁNH PHƯƠNG Với “Đội gạo lên chùa”, cuốn tiểu thuyết mới (NXB Phụ nữ, 6/2011), nhà văn Nguyễn Xuân Khánh tái ngộ độc giả bằng dòng văn chương ấm áp và cuốn hút, hứa hẹn những miêu tả, xét đoán tinh tế về tâm thức con người cũng như những bí ẩn thẳm sâu trong tiềm thức và văn hóa của một cộng đồng dân tộc.
HOÀNG THỊ HUẾ Xứ Huế là một vùng đất có nền văn hóa đặc sắc - vừa mang nét riêng vừa dung hợp với văn hóa Việt Nam và khu vực, trong đó có sự kết hợp hài hòa giữa văn hóa dân gian, văn hóa đô thị cổ truyền và văn hóa cung đình - mà không vùng đất nào có được.
HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNGNhững cuốn sách đã giữ một vị trí đặc biệt trong thế giới tuổi thơ của tôi; trước hết là những sách giáo khoa tôi đã học trong những ngôi trường đầu tiên của đời mình, dưới thời Pháp thuộc.
NGUYỄN KHOA ĐIỀM Tìm hiểu diện mạo văn học một vùng đất là tìm hiểu những vấn đề gì?
KHẾ IÊM Hãy cứ tưởng tượng, khi hội họa mang đồ vật vào trong tranh (Pop Art, thập niên 60), và rồi tranh lại bước ra ngoài giá vẽ để đi vào thế giới hiện thực (thập niên 70), thì thơ cũng đang có những chuyển biến mới, chụp bắt yếu tố đời sống để sử dụng như yếu tố thơ.
HOÀNG TÙNG Văn học đồng tính - LGBT (lesbian, gay, bisexual, transgender) literature đã từng một thời bị coi là đề tài cấm kỵ trên phạm vi toàn cầu. Tuy nhiên, cùng với những cuộc đấu tranh về quyền con người, đấu tranh về bình đẳng giới, sự thừa nhận của xã hội đối với giới tính thứ ba, đó cũng là lúc dòng văn học dành cho người đồng tính bước từ bóng tối ra ánh sáng…
NGUYỄN VĂN TẬN - HOÀNG THỊ ANH ĐÀO Thế kỷ XV - XVII, các nước phương Tây bước vào thời kỳ tích lũy nguyên thủy tư bản, những cuộc phát kiến địa lý đã mở ra một cuộc “cách mạng thương mại” thực sự ở châu Âu và đưa đến việc thiết lập mạng lưới giao thông mậu dịch hàng hải xuyên đại dương nối liền châu Âu với phương Đông.