200 tác giả, 8 thế hệ: Phê bình thơ Việt hậu Đổi mới

09:52 15/03/2016

ĐỖ QUYÊN   

“Hãy đánh chết nó đi, nhà phê bình văn học - cái thằng khốn!”
                                            (J.W. Goethe)

A. MỘT MỐC “CHUẨN” CHO THỜI KỲ HẬU ĐỔI MỚI?

Hậu Đổi mới. Đã có nhiều cố gắng từ các nhà nghiên cứu lý luận và văn học sử đặng tìm ra đường biên cho giai đoạn đương đại này của văn học Việt, tính từ sau mốc lịch sử và mạnh mẽ 1986 - 1989 của thời kỳ Đổi mới. Song, dường như tới nay chưa có “cột mốc” nào chuẩn xác và dễ đồng thuận?1

Chúng ta thử cất công dùng 5 loại phân kỳ để tạo “khu vực biên giới” giữa 2 giai đoạn Đổi mới (1986 - 1989) và hậu Đổi mới (từ khoảng giữa thập niên 1990 đến nay).

+ Phân kỳ kỹ thuật - công nghệ: Cuối năm 1997, Internet đã tới Việt Nam như mang lại đôi hài vạn dặm, đưa đất nước vào xa lộ toàn cầu hóa và giao lưu văn hóa - xã hội quốc tế.

+ Phân kỳ chính trị - xã hội: Giữa năm 1995, nước CHXHCN Việt Nam gia nhập Hiệp hội các nước Đông Nam Á ASEAN như một biểu hiện bình thường hóa quốc gia khi “muốn làm bạn với tất cả các nước”, “đa dạng hóa quan hệ”, “chủ động hội nhập khu vực và thế giới”…

+ Phân kỳ tư tưởng: “(…) vào tháng 7/1990, Ban Bí thư Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam thông qua chỉ thị ‘Về một số vấn đề trong công tác quản lý văn học, nghệ thuật hiện nay’, đây là văn kiện ấn định toàn bộ đời sống văn học ở CHXHCN Việt Nam. (…) Với sự xuất hiện văn kiện này, trong văn học Việt Nam trên thực tế đã kết liễu giai đoạn mà nhà văn nổi tiếng Nguyễn Đình Thi gọi là giai đoạn ‘khủng hoảng’. Bắt đầu chuyển sang thời ‘dân chủ hóa một cách có lãnh đạo’ xã hội Việt Nam.”2

+ Phân kỳ cơ cấu - tổ chức: Đầu năm 1995, Hội Nhà văn Việt Nam họp Đại hội lần 5, bầu ra (và sau bổ sung) Ban Chấp hành gồm 7 người với sự phân công Tổng Thư ký - nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm, Phó Tổng Thư ký thường trực - nhà thơ Hữu Thỉnh. Trong Ban Chấp hành mới đó, không còn nhà văn Nguyên Ngọc cùng một số vị thường được xem là “phe Đổi mới”.

+ Phân kỳ văn học - văn học sử: Có thể xem các thời điểm khởi phát hậu Đổi mới trùng với quãng thời gian mà đề tài Hậu hiện đại trên thế giới đến được cộng đồng văn chương Việt.

Ở trong nước, ngay từ năm 1991 trên tạp chí Văn Học đã có bài dịch Vài suy nghĩ về cái gọi là tiểu thuyết hậu hiện đại của A. Blach; năm 1997 có bài dịch Về chủ nghĩa hậu hiện đại (J. Verhaar). Tới năm 2000 tạp chí Nhà Văn có bài viết Chủ nghĩa hậu hiện đại của Phương Lựu. (Xem: Nguyễn Hưng Quốc3, và Phan Tuấn Anh4).

Ở ngoài nước, Tạp chí Thơ trong 2 năm 1997 - 1998 có 2 bài dịch của Phan Tấn Hải là Giới thiệu thơ hậu hiện đại Hoa Kỳ (P. Hoover), và Chủ nghĩa hậu hiện đại và văn chương (S. Connor). Còn Tạp chí Việt số đầu năm 2000 có tiểu luận Viết, từ hiện đại đến hậu hiện đại của Hoàng Ngọc-Tuấn. Đặc biệt, như một trong vài người đi đầu quảng bá và giới thiệu, Nguyễn Hưng Quốc từng vài lần nói về chủ nghĩa hậu hiện đại từ năm 1996 trong 2 cuốn sách Võ Phiến, Thơ, v.v... và v.v... và đáng kể là cuốn tiểu luận Văn học Việt Nam, từ điểm nhìn h(ậu h)iện đại in năm 2000.5  

B. MỘT DANH SÁCH6 NHÌN NHẬN NHANH PHÊ BÌNH THƠ VIỆT TRONG THỜI HẬU ĐỔI MỚI

Riết róng mà tương đối, chúng ta hãy xem xét mức độ sau đây: trong các công việc định giá, hướng dẫn văn học thì người phê bình có chức phận (nghề nghiệp), người bình luận có bổn phận (cơ duyên), và người giới thiệu có thẩm quyền (nhiệm vụ) về đối tượng mà họ quan tâm.

Theo đó, vài năm qua chúng tôi thu thập tài liệu và xây dựng quan niệm cho một Bảng sơ lược tiếp nhận (nhận diện, nhận dạng, nhận giọng, nhận giới) và phân loại (thế hệ, phạm vi, thể loại, khuynh hướng) các tác giả Việt Nam hiện đại và đương đại trong lĩnh vực phê bình, bình luận, giới thiệu thơ Việt và thế giới. (Ở đây gọi chung là phê bình).

Phạm vi về thời cuộc và niên đại là thời kỳ hậu Đổi mới (từ khoảng giữa thập niên 1990 đến nay).

Xin dẫn ra trước nơi đây một danh sách sơ bộ và tóm tắt về những tác giả Việt phê bình thơ ở trong và ngoài nước có tác phẩm, bài vở, diễn đàn với ảnh hưởng nhất định (tạo dư luận nơi độc giả, gây ấn tượng giữa văn giới…) trong chừng 20 năm qua theo phân loại thế hệ/độ tuổi.

· 1910s: Hoàng Như Mai (sách), v.v…

· 1920s: Lê Đình Kỵ (sách), Trần Ngọc Ninh, Đỗ Đức Hiểu (sách), Võ Phiến (sách), Khổng Đức, Huỳnh Sanh Thông, Lê Đạt (sách), Mai Thảo, v.v…

·1930s: Hoàng Ngọc Hiến, Dương Tường, Vân Long (sách), Trần Văn Tích, Phan Cự Đệ (sách), Văn Tâm (sách), Hồ Sĩ Vịnh (sách), Hà Minh Đức (sách), Thi Vũ (sách), Đặng Hiển, Phong Lê (sách), Hoài Anh (sách), Diễm Châu, Hoàng Ngọc Biên, Nguyễn Đăng Thường, Viên Linh, Nguyễn Huệ Chi (sách), Nguyễn Tiến Văn, Trần Văn Nam (sách), v.v…

· 1940s: Đặng Tiến (sách), Vũ Quần Phương (sách), Trần Đình Sử (sách), Nguyễn Vũ Tiềm, Trúc Thông, Yến Nhi, Đào Trung Đạo, Gia Dũng, Phạm Tiến Duật (sách), Nguyễn Nguyên Bảy (sách), Mai Quốc Liên (sách), Bằng Việt (sách), Luân Hoán, Ngô Thảo (sách), Mã Giang Lân (sách), Đặng Phùng Quân (sách), Vương Trí Nhàn, Du Tử Lê (sách), Hữu Thỉnh (sách), Hoàng Hưng (sách), Thái Doãn Hiểu (sách), Anh Ngọc, Kiều Văn (sách), Nam Dao, Trần Ninh Hồ, Vương Trọng (sách), Thụy Khuê (sách), Trần Nhuận Minh (sách), Vũ Duy Thông, Trần Trương, Ý Nhi, Ngô Thế Oanh, Ngô Nguyên Nghiễm (sách), Vũ Văn Sỹ, Ngô Văn Tao, Lại Nguyên Ân (sách), Lò Ngân Sủn (sách), Hồng Diệu (sách), Thái Kim Lan, Phạm Đình Ân, Khế Iêm (sách), Thanh Thảo, Văn Chinh (sách), Trần Mạnh Hảo (sách), Nguyễn Ngọc Thiện (sách), Lê Quang Trang (sách), Nguyễn Trọng Tạo (sách), Dư Thị Hoàn, Anh Chi, Kim Chuông, Nguyễn Đức Mậu, Đỗ Lai Thúy (sách), Nguyễn Duy, Trịnh Thanh Sơn (sách), Vũ Nho, Nguyễn Văn Lưu (sách), Đặng Văn Sinh, Trần Nghi Hoàng, Nguyễn Thụy Kha, Đỗ Hoàng, Mai Văn Hoan, Bùi Công Thuấn, Nguyễn Hoàng Sơn (sách), Vũ Bình Lục, Lê Thành Nghị (sách), Đường Văn, Hoàng Liên (sách), Nguyễn Văn Long (sách), v.v…

· 1950s: Lã Nguyên (sách), Khuất Bình Nguyên, Nguyễn Huy Thiệp (sách), Đỗ Ngọc Yên, Phan Nguyên, Phan Trọng Thưởng (sách), Bùi Việt Thắng, Phạm Quang Trung (sách), Đinh Quang Tốn (sách), Nguyễn Vy- Khanh (sách), Chân Phương, Nguyễn Văn Dân (sách), Đỗ Minh Tuấn (sách), Ngu Yên (sách), Võ Chân Cửu, Triệu Lam Châu, Trần Hoàng Vy, Nguyễn Anh Tuấn, Nguyễn Tà Cúc, Ngô Vĩnh Bình, Lý Hoài Thu, Bùi Vĩnh Phúc (sách), Lê Vũ, Lê Thị Huệ, Đào Duy Hiệp, Nguyên An, Nguyễn Việt Chiến (sách), Hữu Đạt, Thế Dũng, Nguyễn Hồng Nhung, Đoàn Đức Phương (sách), Huỳnh Như Phương, Trần Quang Quý, Thu Tứ (sách), Hồ Thế Hà, Đỗ Kh., Tâm Nhiên, Đặng Huy Giang, Nguyễn Đức Tùng (sách), Mai Văn Phấn, Đỗ Quyên, Phạm Xuân Nguyên (sách), Hoàng Ngọc-Tuấn (sách), Nguyễn Sĩ Đại, Nguyễn Hữu Quý, Inrasara (sách), Thường Quán, Nguyễn Quang Thiều, Nguyễn Hưng Quốc (sách), Nguyễn Hoàng Đức, Trần Đăng Khoa (sách), Lưu Khánh Thơ (sách), Chu Văn Sơn, Nguyễn Hòa (sách), Văn Giá, Trần Hoài Anh (sách), Nguyễn Hữu Sơn (sách), Nguyễn Thanh Tú, Đông La (sách), Phạm Kỳ Đăng, Nguyễn Lương Ngọc, Hiền Nguyễn, Nguyễn Đỗ, v.v…

- 1960s: Dương Kiều Minh, Nguyễn Chí Hoan, Phạm Thị Hoài, Đỗ Trọng Khơi, Nguyễn Đăng Điệp (sách), Thận Nhiên, Hồng Thanh Quang, Ngô Tự Lập (sách), Chu Thị Thơm, Đinh Linh, Trần Đình Thu (sách), Trần Ngọc Tuấn, Nguyễn Huy Thông, Nguyễn Bình Phương, Đặng Thân (sách), Đoàn Cầm Thi (sách), Phan Nhiên Hạo, Phạm Khải (sách), Lê Đình Nhất-Lang, v.v…

· 1970s: Nguyễn Thanh Sơn (sách), Thiên Sơn, Nguyễn Thanh Tâm (sách), Nguyễn Hữu Hồng Minh, Trần Văn Toàn, Phùng Văn Khai, Nguyễn Thụy Anh, Hoài Nam (sách), Mai Bá Ấn, Khánh Phương (sách), Trần Vũ Long, Văn Bảy/Lý Đợi, Lê Thiếu Nhơn (sách), Lê Hồ Quang (sách), v.v…

· 1980s: Cao Việt Dũng, Đoàn Minh Tâm, Hoàng Đăng Khoa, Mai Anh Tuấn, Trần Thiện Khanh, Hoàng Thụy Anh, Đoàn Ánh Dương (sách), Ngô Hương Giang (sách), Nhã Thuyên, v.v…

Như thế, với dung sai cho phép, con số cập nhật đang là chẵn 200 tác giả ở độ tuổi trong 8 thập niên.

Nhiều nhất là 67 vị được sinh hạ trong kỷ nguyên hậu Thơ mới, thuộc vào thời kỳ Cách mạng mùa Thu, tức là thế hệ 4X.

Kỷ nguyên tiền Thơ mới còn gửi lại chút âm điệu của mình qua “Con khủng long lãng mạn cuối cùng” vừa qua đời 2 năm nay: Giáo-sư-thi-ca Hoàng Như Mai.

Kỷ nguyên toàn cầu hóa 8X mới chỉ tạm gửi vào đội ngũ này 9 nhà phê bình thơ - trẻ tuổi đời nhưng khá là cứng… cựa!

Có thể xem đây như một trong các danh sách nhìn nhận nhanh phê bình thơ Việt Nam trong thời hậu Đổi mới - cái thời vụ văn học đã và đang nở trên bàn tay ánh mắt mỗi chúng ta mà lại chẳng được chầm bập tương xứng.7

Với khả năng ít ỏi và tầm nhìn eo hẹp của một kẻ ở xa các trung điểm văn nghệ nước nhà hẳn sẽ phạm phải khiếm khuyết, chân thành cảm tạ mọi góp ý, chỉnh lý từ quý bạn đọc và bạn văn gần xa!(*)

Vancouver - cập nhật 10/1/2016
Đ. Q
(TCSH325/03-2016)  


............................................
1. Ví dụ như một số nhận định dưới đây (với các nhấn mạnh của chúng tôi - Đ.Q):

- “Đổi mới trên mặt văn hóa ở Việt Nam thì được biết dưới tên Cởi mở, tương tự như chính sách Glastnost của Nga Xô. Quá trình này bắt đầu cùng với Đổi mới Kinh tế nhưng sau đó dừng lại trong thập niên 1990”. (Bách khoa toàn thư mở, vi.wikipedia.org).

- “(…) trong sự thoái trào của làn sóng Đổi mới và bối cảnh toàn cầu hóa, từ khoảng những năm 1990 đến nay.” (Nhã Thuyên, Đặng Thân, Phạm Xuân Nguyên; Tọa đàm “Những tiếng nói ngầm: thơ Việt Nam Hậu Đổi Mới”, vanchuongviet.org).

- “[…] thế hệ thơ có một định phận kì lạ, họ đã thổi làn gió mới vào khí hậu thơ Việt Nam. Nó đã thổi như thế suốt 15 năm… cho đến khi Internet xuất hiện, thì thơ Việt Nam mới dịch chuyển theo hướng khác hẳn! […] Hậu Đổi mới: Chuyển hướng, khi các Website văn chương cấp tập ra đời, cả trong lẫn ngoài nước. Tạm lấy mốc: 2001 để vạch một đường biên, dẫu mờ.” (Inrasara; Văn chương TP. Hồ Chí Minh thời hậu Đổi mới, khởi đầu cho một khởi đầu, 4phuong.net).

2. A. A. Sokolov; Văn hóa và văn học Việt Nam trong những năm đổi mới (1986 - 1996),  Vân Trang dịch, talawas.org 25/5/2004. Nhận định của Nguyễn Đình Thi là từ bài báo Văn học Việt Nam, trăn trở người trong nghề, được in vào cuối năm 1996 như chú thích trong bài đã dẫn.

3. Nguyễn Hưng Quốc; Chủ nghĩa h(ậu h)iện đại và văn học Việt Nam, tienve.org.  

4. Phan Tuấn Anh; H/ậu-ại hiện đại trong văn học Việt Nam - công viên những lối đi hai  ngã rẽ, Tạp chí Sông Hương số 289 tháng 3/2013, tapchisonghuong.com.vn 29/3/2013.

5. Chú thích 3.  

6. Trích và bổ sung từ bản đầy đủ (chưa công bố) của Lời bạt trong sách Thơ cần thiết cho  ai, (Nguyễn Đức Tùng, Nxb. Hội Nhà văn, Hà Nội, 2015; vanchuongviet.org 8/8/2015). Có sửa chữa và viết thêm so với phiên bản 3/12/2015 đã đăng trên vanviet.info 1/1/2016.

7. Xét về độ dài hạn định và chu kỳ hoạt động, lướt lịch sử văn học Việt Nam hiện đại  chúng tôi cả nghĩ khoảng thời gian trên dưới 2 thập niên là vừa đủ cho một giai đoạn/thời kỳ văn học Việt ra đời, phát triển và chấm dứt.

Để tạm kết thúc, nhân cơ hội mùa Xuân xin chuyện vãn bói văn qua 5 câu hỏi:

1) Giai đoạn sau-hậu-Đổi-mới sẽ mang tên gì?

2) Tức là, sự kiện/động lực chính trị, xã hội, văn hóa hay văn học nào của Việt Nam và quốc tế sẽ khiến văn học Việt sang chương hồi mới?

3) Liệu 4 sự kiện/vấn đề chính trị, xã hội, an ninh, văn hóa của đất nước ở tầm khu vực và quốc tế sau đây có thể có những ảnh hưởng: Hiệp định Đối tác kinh tế xuyên Thái Bình Dương TPP đã được ký kết tại New Zealand trong ngày 4/2/2016; Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ 12 diễn ra từ ngày 20 - 28/1/2016; Khủng hoảng Biển Đông vài năm qua; Sự tiến triển của xã hội Việt Nam?

4) Phải chăng thời kỳ sau-hậu-Đổi-mới rồi cũng sẽ hiện diện từ tốn như thời kỳ hậu Đổi mới?

5) Có thể dự báo ra sao về dòng Văn học Việt sau hậu Đổi mới: Đặc trưng văn chương? Tác giả: thế hệ, quan điểm, vùng miền, giới tính? Tác phẩm: khuynh hướng sáng tác, nội dung và hình thức nghệ thuật, thể loại? Tiếp nhận, phá bỏ, sáng tạo gì so với 2 dòng Văn học Đổi mới và hậu Đổi mới?
 






 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • KHẾ IÊM

    Tựa đề về cái chết của hậu hiện đại không có gì mới vì đã có khá nhiều bài viết bàn về vấn đề này, từ những đầu thập niên 1990. Nhưng bài viết đã phác họa cho chúng ta thấy đời sống văn hóa trong thời đại sau chủ nghĩa hậu hiện đại với sự xuất hiện những phương tiện công nghệ mới. Lạc quan hay bi quan, chúng ta chưa biết, nhưng rõ ràng những hệ tư tưởng cũ đang dần dần bị tàn phai nơi những thế hệ mới.

  • ALAN KIRBY

    LTS: Alan Kirby nói chủ nghĩa hậu hiện đại đã chết và đã được chôn. Tới thế chỗ của nó là một hệ hình mới của thẩm quyền và kiến thức được hình thành dưới áp lực của những công nghệ mới và các lực lượng xã hội đương đại. Tựa đề bài tiểu luận, lần đầu tiên xuất hiện trên tạp chí Philosophy Now (Triết học Bây giờ) ở Anh, số 58, năm 2006, và sau đó được in trong cuốn “Digimodernism: How New Technologies Dismantle the Postmodern and Reconfigure Our Culture”, được Continuum xuất bản vào năm 2009.

  • LÊ QUỐC HIẾU

    Trong các bộ phận của khoa nghiên cứu văn học Việt Nam hiện nay, không thể phủ nhận lý luận, phê bình là lĩnh vực có nhiều thay đổi rõ rệt. Một loạt những công trình nghiên cứu lịch sử lí luận, phê bình văn học “trình làng” trong những năm qua[1], đủ để nhận thấy tham vọng khái quát, đánh giá của các nhà nghiên cứu sau mỗi chặng đường phát triển của văn học.

  • THÁI KIM LAN
    I.
    Bài viết này được mở đầu bằng một trải nghiệm tự thân, từ chỗ đứng của chủ thể thực hành nói ra kinh nghiệm của mình, vì thế có thể gây ấn tượng về tính chủ quan. Sự trách cứ ấy xin nhận lãnh trước, nhưng xin được tạm thời để trong dấu ngoặc.

  • LUÂN NGUYỄN

    Nhất đình sơn vũ luyện hoa khai
                 (Mộ xuân tức sự - Nguyễn Trãi)

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ

    (Trích tham luận tại Hội thảo "Văn học trước yêu cầu đổi mới" tháng 12-1987)

  • BỬU CHỈ

    Đã từ lâu tôi vẫn nghĩ và tin rằng: quê hương của nghệ thuật là Tự Do, và nghệ thuật đích thực phải thoát thai từ những con người sáng tạo có đầy đủ quyền làm người, cùng tinh thần trách nhiệm đối với cộng đồng xã hội của họ; và lớn hơn nữa là đối với con người.

  • LÊ QUANG THÁI

    Năm Quý Tỵ đã trôi qua, Xuân Giáp Ngọ đã về:
    Rắn trườn đã hết năm,/ Ngựa hay đưa Xuân về.(1)

  • ĐỖ LAI THÚY

    Kìa ai chín suối xương không nát
    Ắt hẳn nghìn thu tiếng vẫn còn
                   
    (Nguyễn Khuyến)

  • TRẦN HUYỀN TRÂN

    Có lẽ, Cám dỗ cuối cùng của Chúa là cuốn tiểu thuyết nói về khoái lạc trần tục của Jesus một cách táo bạo nhất?

  • NGUYỄN DƯ

    Hôm ấy bạn bè họp mặt ăn uống. Chuyện nổ như bắp rang. Tôi khoe mình đã từng ba lần đội trời đạp đất trên đỉnh đèo Hải Vân. Một bạn hỏi đèo Hải Vân có gì đặc biệt? Câu hỏi bất ngờ làm tôi cụt hứng. Ừ nhỉ… đèo Hải Vân có gì đặc biệt?

  • PHAN TUẤN ANH

    “Lịch sử như là đem lại ý nghĩa cho cái vô nghĩa”
                                                               (T.Lessing)

  • Ngày nay, nhìn lại chủ trương cách mạng của Phan Châu Trinh cách đây hơn một thế kỷ, một lần nữa chúng ta lại thấy tầm nhìn của một người mang khát vọng Khai dân trí, Chấn dân khí, Hậu dân sinh.

  • NGUYỄN THỊ TỊNH THY

    Sau khi đọc bài trao đổi của Triệu Sơn trên tạp chí Sông Hương số 10/2013 về bài viết của tôi trên tạp chí Sông Hương số 8/2013, tôi xin có mấy ý trả lời như sau:

  • PHAN NGỌC

    Trong quyển "Tìm hiểu phong cách Nguyễn Du trong truyện Kiều", tôi có dùng một số thuật ngữ chuyên môn. Trong phạm vi quyển sách tôi không thể trình bày kỹ cách hiểu của mình, cho nên có sự hiểu lầm. Giờ tôi xin trình bày kỹ hơn khái niệm "thức nhận", cơ sở của tác phẩm, để bạn đọc dễ đánh giá hơn.

  • YẾN THANH

    Trong bài viết này, chúng tôi muốn nhìn nhận những cống hiến của GS.TS Lê Huy Bắc trên lĩnh vực khoa học, đây là những thành tựu mà theo chúng tôi, vừa có tính lan tỏa, lại vừa có tính bền vững. Bởi vì, có thể nhiều học viên, nhà nghiên cứu dù không trực tiếp được nhà khoa học giảng dạy, hướng dẫn, nhưng từ những công trình, bài báo khoa học, vẫn được kế thừa và chịu sự tác động từ người thầy đó. 

  • TRIỆU SƠN

    Bài này nhằm trao đổi với tác giả Nguyễn Thị Tịnh Thy về những bất cập của nghiên cứu, phê bình văn học hiện nay nhân đọc bài “Những bất cập và thái quá trong nghiên cứu văn học hiện nay” của tác giả trên Sông Hương, 294/08-13.

  • PHAN TRỌNG HOÀNG LINH

    Được Bakhtin đề xuất trong công trình nghiên cứu về sáng tác của Frăngxoa Rabơle, thuật ngữ chủ nghĩa hiện thực nghịch dị (grotesque realism) là sự định danh ước lệ cho một kiểu hình tượng đặc thù (hay phương pháp xây dựng hình tượng đặc thù) của nền văn hóa trào tiếu dân gian, kiểu hình tượng nghịch dị.

  • LTS: Phạm Phú Uyên Châu, bút danh Meggie Phạm, sinh năm 1991, hội viên trẻ nhất của Hội Nhà văn Thừa Thiên Huế, tác giả của bộ truyện dài liên hoàn do Nxb. Trẻ ấn hành: Hoàng tử và em (2011, tái bản 2011), Giám đốc và em (2011, tái bản 2012), Chàng và em (2012, tái bản 2012), Người xa lạ và em (2012) và Tôi và em (đang in).

  • ĐOÀN ÁNH DƯƠNG

    Trong Điều kiện hậu hiện đại, Jean-Francois Lyotard cho rằng: “Bởi vì người ta không thể biết điều gì xảy ra cho tri thức, tức là sự phát triển và truyền bá nó hiện nay đang gặp phải những vấn đề gì, nếu không biết gì về xã hội trong đó nó diễn ra.