Nhà văn Trần Tiễn Cao Đăng, tác giả cuốn tiểu thuyết kỳ lạ Life Navigator 25: Người tình của cả thế gian, chia sẻ những suy nghĩ về cuốn tiểu thuyết mới nhất của mình, quan niệm của riêng anh về văn chương và thế giới.
Bìa tiểu thuyết "Life Navigator 25: Người tình của cả thế gian"
Nguyễn Hoàng Anh Thư (NHAT): Anh là người dịch một số tác phẩm rất quen thuộc với bạn đọc, vậy khi viết anh có chịu ảnh hưởng của văn phong một tác phẩm dịch nào đó không? Anh từng nói: “Tiểu thuyết của tôi không thuộc về số đông”, nhưng cái nhan đề anh đặt cho tiểu thuyết “Người tình của cả thế gian” lại có vẻ rất “câu khách”, anh thử lý giải cho người đọc về điều này được không?
Trần Tiễn Cao Đăng (TTCĐ): Tôi dịch khá nhiều tác phẩm văn chương nước ngoài, và đọc văn chương nước ngoài nhiều hơn văn chương trong nước, cho nên văn tôi viết nghe có vẻ “Tây” là điều dễ hiểu. Điều này diễn ra tự nhiên - không phải tôi chủ ý viết như vậy. Trong cách tư duy, trong tâm trí, tôi luôn cảm thấy mình phần lớn không bị ràng buộc trong khuôn khổ dân tộc Việt, không “thuộc về” người Việt. Đồng thời với ý thức mình là người Việt, tôi luôn có cảm giác rõ rệt mình thuộc về một nơi khác. Ngôn ngữ của tôi phản ánh điều đó. Nhan đề Người tình của cả thế gian, cũng như bản thân câu chuyện, đến với tôi một cách tự nhiên. Sự thật là, trong khi viết cuốn sách và trong khi nghĩ đến nhan đề ấy, tôi không nghĩ đến chuyện người đọc là ai. Cuốn sách được viết ra do nhu cầu tự thân nó. Một khi nó đã tượng hình đầy đủ và có đó giữa thế gian rồi, người đọc “lý tưởng” của nó sẽ xuất hiện.
NHAT: Tiểu thuyết này anh viết chủ yếu dựa vào hư cấu, ít trải nghiệm thật, nhưng thế giới trong đó tràn đầy cảm xúc thật, mỗi nhân vật, mỗi tình huống đều được anh hình dung và thể hiện bằng ngôn ngữ rất chi tiết. Tuy nhiên đôi khi người đọc không khỏi băn khoăn vì đó là một thế giới quá xa lạ với đa số người Việt hiện tại. Anh lý giải ra sao về điều này?
TTCĐ: Tại sao bạn thích đọc văn chương nước ngoài? Phải chăng một nhà văn Việt thì nhất thiết phải viết thứ văn gần gũi với người Việt? Văn chương đích thực là một cõi vô biên giới, như tôi đã nói ở một chỗ khác. Tôi thích phản ứng của một số người đọc trẻ. Họ hoàn toàn không thấy những sự “khác lạ” trong tiểu thuyết Life Navigator… là điều gì đặc biệt. Họ tiếp nhận những thế giới trong tương lai, những đảo vũ trụ kia như là chuyện bình thường, đương nhiên. Họ mang tính “quốc tế” cao hơn hầu hết người đọc lớn tuổi. Theo nghĩa nào đó, cuốn tiểu thuyết của tôi dành trước hết cho những người đọc trẻ.
NHAT: Nếu chắp nối những giấc mơ của cô gái, người đọc sẽ nhận ra tình yêu của cô lớn dần lên, đang biến đổi theo chiều không gian lẫn thời gian, có cả những điều không tưởng vẫn có thể xảy ra trong những giấc mơ đó. Những hình ảnh đẹp và buồn, những “chữ nghĩa quý phái”... Theo anh, để viết được như vậy thì đòi hỏi nhà văn phải có tư chất lãng mạn, thông minh và chất tài tử, điều này có chịu ảnh hưởng từ nền tảng văn hóa của gia đình không?
TTCĐ: Chắc hẳn có. Cả cha lẫn mẹ tôi hồi còn trẻ đều là những nhà thơ không chuyên. Đặc biệt, tôi chịu ảnh hưởng có tính quyết định từ mẹ tôi. Bà là người dịu dàng, tinh tế, hơi lạc lõng giữa đời thường. Tôi thừa hưởng từ bà tình yêu tự nhiên đối với văn chương và nghệ thuật nói chung.
NHAT: Có vẻ như anh là một nhà văn có tính cách lập dị qua những quan niệm thơ văn mà anh bày tỏ trên Facebook. Ví dụ: “Trong thời văn hóa nghệ thuật đạo đức xuống cấp như Việt Nam hiện tại, khi mà mọi thứ xấu xí tràn lan và giành quyền thống trị, thì nghệ sĩ, hơn bao giờ hết, cần phải kiên trì, bướng bỉnh, lì lợm tiếp tục làm ra cái đẹp. Trong hoàn cảnh đó, làm ra cái đẹp là hành động chính trị của nghệ sĩ. Vũ khí của cô/anh ấy là cái đẹp, với quyền năng và sự bất diệt của nó”. Tôi muốn hỏi thêm, người phụ nữ đẹp theo anh là người như thế nào?
TTCĐ: “Lập dị”, bản thân điều đó không có gì xấu. Vấn đề là anh khác đám đông ở vấn đề nào, và khác như thế nào. Còn về phụ nữ đẹp, tôi có trả lời phỏng vấn như sau cho tạp chí Esquire: “Phụ nữ thế nào là lý tưởng với tôi ư? Nàng đẹp, thông minh, tinh tế, mạnh mẽ, “đầy nhục cảm”, dịu dàng, vị tha. Xác suất rất cao là cả đời bạn không gặp nàng. Nhưng nàng có thật. Một điều kỳ diệu, có thể nói vậy. Điều quan trọng hơn thế là ta cầu chúc hạnh phúc và bình an cho cả những người phụ nữ chỉ gần với chỗ lý tưởng, những người chiếm số đông nữ giới. Và yêu họ chẳng khác gì họ là những phụ nữ lý tưởng, bởi vì chính họ, những phụ nữ “bất toàn” đó, mới là phần cơ bản của thực tại. Con người cần như vậy: luôn mong nhớ cái toàn hảo và luôn biết hòa hợp với cái bất toàn”.
NHAT: Đến thời điểm này, cuốn tiểu thuyết đã xuất bản được gần tròn một năm. Anh cảm nhận được điều gì về phía độc giả? Có sự ghi nhận nào thật khác biệt, anh có thể chia sẻ được không?
TTCĐ: Không có nhiều người đã đọc và đọc hết được cuốn tiểu thuyết, đó là điều có thể đoán trước được. Tuy nhiên, trong số ít những người đã đọc trọn cuốn tiểu thuyết, có những người hiểu và thấu cảm với nó một cách sâu sắc. Và đó không phải là một nhà phê bình, một nhà văn “đàn anh”, một nhân vật “có thẩm quyền” nào trong giới văn chương, mà là một người đọc bình thường, trẻ tuổi, “vô danh” (cho dù thật ra không hoàn toàn vô danh). Những người đọc “vô danh” này có cái mà nhiều người khác không có được: họ có khả năng thấu cảm, sự khiêm nhường và tâm trí cởi mở, không bị trói buộc bởi định kiến, những phẩm chất cần có của một người đọc “cừ khôi”. Một nền văn chương mạnh thì cần có không chỉ những người viết cừ khôi mà cả những người đọc cừ khôi. Tôi tin ở những người đọc như thế.
NHAT: Anh viết về thế giới loài vật bởi anh nói “đã quá chán thế giới của con người”. Thế giới loài vật chạm tới cảm xúc sâu sắc nhất của anh. Anh có thể chia sẻ những cảm nhận ấy của anh không, đặc biệt là tình cảm yêu thương của thế giới đại đồng mà anh bắt gặp được ở đó?
TTCĐ: Tôi tin chắc rằng nấc tiến hóa cao hơn mà loài người, hay ít nhất là một bộ phận loài người cần phải vươn tới là thấu hiểu được, thực sự đối thoại được với mọi loài sinh vật khác và đối xử với mọi loài khác giống như cư xử với đồng loại của mình. Loài người cho đến bây giờ về cơ bản vẫn là một chủng loài ích kỷ, chỉ quan tâm đến bản thân mình và chỉ tôn trọng bản thân mình mà thôi (khi nói điều này, chúng ta tạm thời bỏ qua những khác biệt và xung đột trầm kha giữa những bộ phận khác nhau của bản thân loài người, vốn tự nó là một vấn nạn lớn, mà chỉ nói về loài người như một tổng thể).
Loài người cần học được cách làm sao có thể tiếp tục tồn tại và phát triển nền văn minh của mình mà không phải trả cái giá đắt là sự hủy diệt Mẹ Trái đất đã sinh ra mình cùng với các loài sinh vật khác vốn là anh em của mình.
Hiểu, tôn trọng và yêu thương các loài khác, những sinh vật hiển nhiên yếu hơn con người, đó là một phẩm chất mà hầu hết chúng ta không có hoặc có rất ít, và cần phải có nếu chúng ta thực sự tin rằng loài của mình là loài ưu việt nhất. Loài ưu việt nhất không phải là loài thẳng tay hủy diệt các loài khác một cách không cần thiết và không suy nghĩ, mà là loài thực sự hành động để giữ gìn các loài khác trong khi vẫn tiến tới trên con đường tiến hóa của mình, một loài thực sự trưởng thành và có ý thức trách nhiệm.
NHAT: Cá nhân anh có tin vào sự tồn tại của những thực thể giống như Life Navigator không?
TTCĐ: Tôi hoàn toàn tin rằng có những dạng tồn tại mà khoa học chưa biết tới. Nếu khoa học chưa biết tới chúng, thì nghĩa vụ của nhà khoa học không phải là phủ nhận chúng, mà là nhẫn nại và khiêm nhường theo dõi chúng, quan sát chúng, cố tìm hiểu chúng được chừng nào hay chừng đó.
NHAT: Chương Phụ lục với các nhân vật di dân cho thấy một viễn cảnh đầy bi quan về tương lai của loài người: Trái đất bị hủy hoại đến mức không còn có thể ở được, loài người phải di cư lên các đảo vũ trụ quay quanh trái đất, mà cũng chỉ là một bộ phận rất nhỏ của loài người mới có được may mắn đó mà thôi. Anh không tin rằng có thể có triển vọng tốt hơn cho loài người sao?
TTCĐ: Cũng như nhiều người khác, tôi chân thành mong muốn có triển vọng tốt cho tương lai của loài người. Mặt khác, khi nhìn vấn đề bằng lý tính, tôi biết không có nhiều cơ sở thực tế để tin rằng tương lai con người sẽ tốt đẹp. Nói gọn, tôi không tin vào chuyện loài người như một tổng thể có khả năng tự cứu mình, tự vượt qua bản tính vị kỷ và sự ngu dốt của mình. Nhưng tôi tin rằng một số ít cá nhân thì có khả năng ấy. Và số ít cá nhân này có cứu được toàn bộ giống loài mình hay không, điều ấy không quan trọng. Họ cứu được bản thân mình, nâng được bản thân mình lên cao hơn giống loài, vậy là đủ.
NHAT: Có những cú nhảy đầu đời rất khó khăn cho người cầm bút. Theo anh, người cầm bút phải có phẩm chất gì trước tiên?
TTCĐ: Tôi nghĩ, phẩm chất đầu tiên mà nhà văn phải có là nhu cầu nhìn và nghĩ về mọi thứ theo một cách khác, và bên cạnh đó là nhu cầu nói với mọi người về điều này theo cách của mình: bằng cách kể chuyện. Nhà văn bẩm sinh có thể ngại nói trước đám đông nhưng không ngại viết ra những gì sâu thẳm nhất bên trong mình. Một ca sĩ bẩm sinh có thể hát hết mình nơi bãi biển vắng tanh, như thể có hàng ngàn người đang lắng nghe họ và thấu cảm với họ. Một nhà văn bẩm sinh cũng vậy, viết hết mình trong đơn độc hoàn toàn, như thể có hàng ngàn người đang đọc họ, sẽ đọc họ và thấu cảm với họ.
Cám ơn anh về cuộc chuyện trò thú vị.
Nguyễn Hoàng Anh Thư thực hiện
(SHSDB25/06-2017)
ĐỖ LAI THÚYCon gì sáng bốn chântrưa hai chântối bốn chân?Câu đố của Sphinx
HÀ VĂN LƯỠNG1. Trong hai thập niên cuối của thế kỷ XX và những năm đầu thế kỷ XXI, nước Nga đã có những biến đổi chính trị sâu sắc làm thay đổi đất nước trên nhiều phương diện: chính trị - xã hội, kinh tế, văn hoá, giáo dục và văn học nghệ thuật… Những nền tảng xã hội, những chuẩn mực đạo đức trước đây đã từng tồn tại trên bảy chục năm, được tiếp nối qua nhiều thế hệ đã thay đổi.
TRẦN QUỐC HỘIGenette coi thời gian là nhân tố trung chuyển cốt truyện đến truyện kể, qua hành vi kể chuyện. Ông đã sáng tạo ra mô hình xử lý thời gian rất thú vị, mô hình xử lý của ông xung quanh những vấn đề cơ bản như trình tự, tốc độ, tần suất kể chuyện.
HÀ VĂN THỊNH Luận điểm trung tâm của Tư tưởng Hồ Chí Minh là Độc lập dân tộc phải gắn liền với CNXH. Đó là quan điểm chiến lược có ý nghĩa quyết định đối với toàn bộ tiến trình Cách mạng Việt . Chính vì thế, nắm bắt một cách sâu sắc tinh thần biện chứng của chủ nghĩa Lê Nin để vận dụng thật sáng tạo kinh nghiệm của Cách mạng tháng Mười (CMT10) vào hoàn cảnh cụ thể của Cách mạng Việt Nam (CMVN) là mục đích xuyên suốt của Tinh thần và Tư tưởng Hồ Chí Minh.
HOÀNG NGỌC HIẾNĐây là hai vấn đề tôi tâm đắc nhất trong nhiều vấn đề lý thú được nêu lên trong tác phẩm của André Chieng (1).
HOÀNG NGỌC HIẾN(tiếp theo và hết)Trong tập chuyên luận của A.Cheng, tìm hiểu những nguyên nhân tư tưởng tạo ra thần tích kinh tế Trung Hoa trong 3 thập kỷ qua, từ chương này sang chương khác, tác giả nhấn mạnh những nét đặc sắc của văn hoá Trung Hoa:...
NGUYỄN HỮU QUÝ1. Einarokland, nhà thơ Na Uy đã phát biểu tại hội thảo Thơ và toàn cầu hóa, tổ chức ở Vácsava tháng 10 năm 2001 rằng: “Con người, còn ngôn ngữ thì còn thi ca. Thi ca biết tự lo toan cho bản thân mình”.
BẢO NHÂNỞ nước ta, Huế được xem là kinh đô của Phật giáo, không phải bởi vì ở đây có nhiều chùa tháp, đông đảo tín đồ theo Phật hay từng có một thời là cái rốn của Phật giáo Việt , biệt xuất nhiều bậc cao tăng đương đại. Theo chúng tôi, nói như nhà viết kí Hoàng Phủ Ngọc Tường, bởi vì tính cách Huế, không phải Nho, mà chính là Thiền.
ĐỖ LAI THÚY(Tiếp theo Sông Hương 11/2007)Tiếng nói của tình yêu đồng giới, của dục cảm đồng giới không chỉ bằng ngôn ngữ của hữu thức, trực tiếp, mà chủ yếu còn bằng ngôn ngữ của vô thức, hàm ẩn.
NGUYỄN ĐĂNG ĐIỆPNhững ai gần Trương Đăng Dung, thường nghe anh nói nhiều về các loại giới hạn: giới hạn của đời, sự phi lý của cõi nhân sinh, sự cản trở của những tín điều xưa cũ...
TƯỞNG THUẬT TRÁC Có phải hiện nay văn học đang đối mặt với thời đại tiêu dùng hay không? Nhiều người còn hoài nghi vấn đề này. Thậm chí có người còn phủ định sự có mặt của thời đại tiêu dùng trong khi miền Đông và miền Tây Trung Quốc đang có sự không cân bằng và tất cả đều đang xây dựng một xã hội khá giả.
MINH ĐỨC TRIỀU TÂM ẢNHKhông Lộ là một vị thiền sư thời Lý, ông họ Dương, quê ở Hải Thanh, chùa Nghiêm Quang - nay là chùa Keo, thuộc xã Vũ Nghĩa, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình; dòng dõi nhiều đời làm nghề chài lưới, sau bỏ nghiệp sông nước, xuất gia tu Phật, thường trì tụng Đà-la-ni.
THÁI DOÃN HIỂUNguyễn Khắc Thạch làm thơ như đi chân trần trên lưỡi dao bén của sự thật, máu toé vãi ra. Anh lấy dự cảm của mình làm thuốc băng bó. Vết thương thành sẹo. Thạch gọi đấy là thơ! “Thơ là sẹo của sự thật”.
TÂM VĂNNgười xưa có câu: “Tòng thiện bất túc dĩ vi chính” (Chỉ theo điều thiện thì không đủ để làm chính trị). Câu nói đó xem ra rất đúng với Tào Tháo.
LƯU KHÁNH THƠ1. Nam Trân trong dòng thơ tả chân của phong trào thơ mớiHoài Thanh đã dùng khái niệm tả chân để định danh một nhóm các tác giả Thơ mới tương đối gần nhau về bút pháp.
NGUYỄN DƯƠNG CÔN(Trao đổi về tiểu luận Văn học như là tư duy về cái khả nhiên của Trần Đình Sử, Văn Nghệ số 24 ngày16/6/2007)
VĂN TÂMXứ Huế – Thừa Thiên có một vị lão thành cách mạng được nhiều người biết tên tuổi. Đó là cụ Nguyễn Vạn, tức Lê Bốn; tên khai sinh là Phùng Lưu – "thầy Lưu", sinh năm 1916, quê ở làng Thanh Thủy Thượng (nay thuộc xã Thủy Dương), huyện Hương Thủy.
NGUYỄN BÙI VỢI"Chống tham ô lãng phí" là một bài thơ về đề tài chính trị xã hội, một vấn đề bức xúc của cuộc sống. Nó được viết ra năm 1956 khi miền Bắc sau chín năm kháng chiến chống Pháp gian khổ đang hàn gắn vết thương chiến tranh, khai hoang, phục hoá, tìm công ăn việc làm...
NGUYỄN DƯƠNG CÔNMuốn tiếp cận với văn hoá văn học, trước hết phải xác định cơ bản đúng đắn thế nào là văn hoá và thế nào là văn học.
HOÀNG SĨ NGUYÊN Hồi học Đại học, tôi và mấy đứa bạn phải đi bộ năm, sáu cây số vòng quanh các hiệu sách thành phố để tìm mua cho được cuốn "Thơ và mấy vần đề trong thơ Việt nam hiện đại" (Hà Minh Đức, NXB KHXH, 1994).