HƯỚNG TỚI KỶ NIỆM 70 NĂM NGÀY THÀNH LẬP LIÊN HIỆP CÁC HỘI VHNT THỪA THIÊN HUẾ
NGUYỄN KHẮC PHÊ
Từ trái qua: Nhà văn Nguyễn Quang Hà, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm, họa sĩ Đặng Mậu Tựu, nhà thơ Ngô Minh, các nhà văn Tô Nhuận Vỹ, Nhất Lâm, Nguyễn Khắc Phê tại mộ nhà thơ Phùng Quán - Ảnh: internet
Có thể nói, tôi là người có “duyên nợ” với Sông Hương. Trước hết là với con sông như là quà tặng của tạo hóa, chảy ngang thành phố Huế mang trong mình nhiều Di sản văn hóa được UNESCO công nhận. Tôi quê Hà Tĩnh, nhưng lại sinh tại Huế, khi thân phụ đang ngồi ghế Phủ Doãn bên dòng sông Hương. Dinh Phủ Doãn, nay là trụ sở của Ủy ban Nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế. Gần đây, tôi đã tìm thấy tấm bia ghi danh các vị giữ chức Phủ Doãn thời Nguyễn trong ngôi miếu nhỏ phía sau Trụ sở UBND tỉnh, trên đó có ghi tên thân phụ tôi…
Sau ngày thống nhất đất nước, rồi Bình Trị Thiên hợp nhất thành một tỉnh, năm 1976, từ Hội Văn nghệ Quảng Bình, tôi chuyển vào Huế. Do đã làm Tập san Văn nghệ Quảng Bình mấy năm, vào Huế, tôi được phân công làm Tập san “Văn nghệ Bình Trị Thiên.” Đó là những ngày Bình Trị Thiên mới “sum họp một nhà”, không khí thật vui vẻ, đông đúc và có thể nói là hùng hậu. Xuân Hoàng, Lương An, Hoàng Phủ ngọc Tường, Nguyễn Khoa Điềm, Tô Nhuận Vỹ, Phạm Đăng Trí, Xuân Đàm, Trần Hữu Pháp, Lâm Mỹ Dạ, Lê Thị Mây, Hà Khánh Linh, Bửu Chỉ, Võ Quê, Thái Ngọc San, Nguyễn Đắc Xuân... Một danh sách thật dài... dài như là tỉnh Bình Trị Thiên, khó mà kể đủ. Hồi đó, cũng chưa ai bận tâm nhiều đến chuyện chức tước, chia việc phân công nhau mà làm theo khả năng từng người. Cũng vì thế mà gần đây (tháng 10/2014) khi đưa nhà báo Dương Phước Thu mượn chồng “Văn nghệ Bình Trị Thiên”, anh không thấy ghi tên ai “Tổng” ai “Phó”, hay Trưởng Ban này nọ trên các số Tạp chí, tôi không thể trả lời được.
Tập san “Văn nghệ Bình Trị Thiên” trong hơn 7 năm tồn tại, với 30 số, khổ 19x27cm, số trang không cố định, thường từ 100 đến 140 trang (số 1 ra vào tháng 7/1976 và số cuối ra vào khoảng tháng 4/1983). Dù lực lượng có thể nói là hùng hậu, sáng tác, nghiên cứu, phê bình được đăng tải cũng đa dạng và không ít bài hay, nhưng do vẫn theo cách làm báo thời “bao cấp”, ít năng động, phong trào văn nghệ thì chưa thấy dấu hiệu đổi mới, nên từ hình thức đến nội dung gần như là “đồng dạng” với tập san văn nghệ các địa phương trong cả nước, ngoại trừ bìa số 1 của họa sĩ Bửu Chỉ vẽ nhà máy với ống khói mà trông như một hầm mộ, bị phê phán, công kích khá nặng nề. Chuyện không vui rồi cũng qua, mặc dù dẫn đến một cách “tiếp thu” cũng chẳng vui gì khi Bửu Chỉ vẽ bìa số 3 chỉ toàn một màu đỏ rực! Cũng có thể nói đây “tín hiệu” báo trước về những “sự cố” của “Sông Hương” về sau.
![]() |
Hình minh họa cho tập san Văn nghệ Bình Trị Thiên - Ảnh: NKP |
Tôi không giữ được toàn bộ các số “Văn nghệ Bình Trị Thiên”, chỉ thấy số cuối là số 28, ra tháng 1/1983 và có quảng cáo số 29 mừng Tết Quý Hợi 1983. Trong giai đoạn này nhạc sĩ Trần Hoàn làm Chủ tịch và nhà thơ Xuân Hoàng làm Phó Chủ tịch Hội. Trong số 25 có đưa tin họp Ban Chấp hành Hội bổ sung nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm vào Ban Thường vụ Hội.
Cho đến ngày 17/12/1982, tôi được lĩnh trọng trách đi Hà Nội, mang theo công văn của Thường vụ Tỉnh ủy Bình Trị Thiên chính thức đề nghị Trung ương cho “Sông Hương” ra đời.
(Việc này cũng như không khí ngày vui khi ra “Sông Hương” số 1 (tháng 6/1983), tôi đã thuật lại trong một bài viết nhân kỷ niệm 5 năm “Sông Hương” ra số đầu, nên sau đây chỉ “bổ sung” một số điều chưa kể.)
Có một chi tiết hình như ít người để ý là mãi đến đầu tháng 9/1983, Đại hội Văn nghệ Bình Trị Thiên lần thứ hai mới tổ chức (nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm được cử làm Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký), nhưng từ tháng 3 đã có giấy phép ra Tạp chí Sông Hương với Tổng Biên tập là Nguyễn Khoa Điềm, tôi làm Phó; mà theo lệ thường thì phải sau Đại hội, Ban Chấp hành mới cử ra Tổng Biên tập. Có sự “phá lệ” này vì nhu cầu ra một tờ Tạp chí văn hóa - văn nghệ của Huế vượt thoát sự bó hẹp của một Hội Văn nghệ địa phương đã nung nấu trong anh chị em văn nghệ sĩ từ lâu. Và cũng từ lâu, Huế là một vùng đất có truyền thống báo chí, có nhiều tờ báo đứng chân ở Huế nhưng “nói chuyện” cả nước. “Sông Hương” sớm có tiếng vang, một phần lớn là nhờ nhận thức được điều đó…
…Có một kỷ niệm vui vui với Trịnh Công Sơn về bài hát “Huyền thoại Mẹ” in “Sông Hương” số 12 - kỷ niệm 10 năm giải phóng Huế (1975 - 1985). Trước đó, trong một chuyến công tác vào thành phố Hồ Chí Minh, tôi đến thăm Trịnh Công Sơn tại 47 Duy Tân, nghe Sơn hát “Huyền thoại Mẹ”, tôi liền xin 1 bản về in “Sông Hương”. Đây là lần công bố đầu tiên bài hát này. Khi tạp chí in ra, có tiếng xì xào rằng bài hát “không rõ lập trường, không biết tác giả ngợi ca người mẹ ở bên nào cuộc chiến…”. Ý kiến này không có ai “tiếp âm, phóng đại” lên, còn bài hát thì nhanh chóng được phổ biến, được nhiều người hoan nghênh, nên rồi cũng yên.
Thời Nguyễn Khoa Điềm làm Tổng Biên tập chưa có “không khí” Đổi Mới náo nhiệt, nên cũng ít “sự cố”. Hình như chỉ có “vụ” nhiều bạn đọc ở Huế phản đối gay gắt tiểu thuyết “Học phí trả bằng máu” của Nguyễn Khắc Phục khiến Nguyễn Khoa Điềm khó xử. Tôi còn nhớ khi “Sông Hương” định đăng bài của Hoàng Dũng phê phán cuốn tiểu thuyết này, Nguyễn Khoa Điềm đã có một cử chỉ thận trọng hiếm thấy là đạp xe đến Khu tập thể Đống Đa, trèo lên gác 4 để “tham khảo” ý kiến của “một người giúp việc” là tôi! Nhân đây, cũng nên nói luôn việc nhà văn TĐK sau này viết bài chê trách Nguyễn Khoa Điềm chuyện nọ, việc kia. Như tôi được biết, Nguyễn Khoa Điềm không liên quan gì đến “vụ” này.
Nguyễn Khoa Điềm làm Tổng Biên tập đến số 18 thì được cử đi học dài hạn (hình như là ở Trường Nguyễn Ái Quốc); nhà văn Tô Nhuận Vỹ kế tục, còn tôi vẫn làm Phó. Nhà văn Nguyễn Quang Lập, trong một bài viết về tôi có nói rằng tôi là một người “chuyên” làm “Phó” cho người này, người kia mà vẫn vui vẻ. Thì xuất thân là “quan tham lục lộ”, lí lịch lại “đen” như thế, làm chi dám mơ ước cao xa, dù chỉ trong làng văn. Vậy mà khi Tổng Biên tập Tô Nhuận Vỹ hăng hái phất cờ Đổi Mới, bị Tuyên huấn Trung ương và Tỉnh ủy “huýt còi” thì tôi lại được Ban Chấp hành Hội Văn nghệ cử làm Tổng Biên tập!
Nói gọn một câu như thế, nhưng đây là giai đoạn “nóng” nhất, nhiều biến động nhất của “Sông Hương”. Nhìn bề ngoài, về quy mô, cơ chế, từ khi Tô Nhuận Vỹ làm Tổng Biên tập (từ số 19 - Tháng 5 - 6/1986), có 2 “sự kiện” nổi bật. Một là Tòa soạn được rời khỏi căn phòng 20 mét vuông trên gác nhà 26 Lê Lợi, sang nhận Trụ sở mới tại số 5 Đinh Tiên Hoàng (trước cửa Thượng Tứ), rồi tiếp theo là trở thành một đơn vị hạch toán độc lập; hai là việc chia tỉnh Bình Trị Thiên thành 3 tỉnh từ ngày 10/7/1989. Đó cũng là thời điểm kết thúc nhiệm vụ Tổng Biên tập của Tô Nhuận Vỹ với số 39 (ra tháng 8 - 9/1989)…
Sau đó, coi như “Sông Hương” tự đình bản gần nửa năm, mãi đến tháng 1/1990 đầu năm Canh Ngọ, “Sông Hương” mới ra tiếp số 40, ghi là 1 (40), hàm ý mở đầu một chặng mới. Quả là về luật pháp, do chia tỉnh, Hội Văn nghệ Thừa Thiên Huế được thành lập, nên tờ Tạp chí phải được tổ chức lại. Trong lời “Cùng bạn đọc” đầu số 40, chỉ nói vắn tắt là do “phải tiến hành đăng ký giấy phép mới”. Tôi không giữ tờ giấy phép được cấp lại ngày 20/12/1989, nên không rõ trên đó có ghi tên người chịu trách nhiệm không? Chỉ biết trên cả hai số 40 và 2 (41) (Tháng 2 - 3/1990) và số 3 (42) (tháng 4 - 5/1990), số 4 (43) (tháng 6/1990) không ghi tên Tổng Biên tập và trên trang “Tin văn hóa văn nghệ” cuối số 41, cho biết ngày 9/2/1990, Ban Thư ký Hội đã quyết định phân công hai Ủy viên BCH là Nguyễn Khắc Phê và Thái Ngọc San làm trợ lý nội dung cho Tổng Biên tập (mà chẳng rõ Tổng Biên tập là ai!)…
Đó là sơ lược “lịch trình” đoạn cuối “sự cố” Đợt 1 của “Sông Hương”. Thực ra thì “Sông Hương” bắt đầu bị soi xét và phản ứng khi cho đăng mấy bài bút ký của Nguyễn Quang Hà tố cáo tệ mất dân chủ và tiêu cực ở các địa phương. Tuy vậy, đây mới chỉ là phản ứng với vụ việc, chi tiết cụ thể, nhưng đến bài thơ “Người đàn ông 43 tuổi nói về mình” của Trần Vàng Sao đăng trong số 32 (tháng 7/1988), số kỷ niệm 5 năm “Sông Hương” thì luồng ý kiến phản ứng theo lối suy diễn, quy kết dữ dội...
Tuy vậy, kiến trúc sư Nguyễn Trọng Huấn, từ thành phố Hồ Chí Minh gửi thư ra, có đoạn: “…Tôi coi đây là bài thơ lớn và hay nhất trong năm nay…”. Gần đây, bài thơ được in lại nhiều nơi và cũng có ý kiến tương tự như anh Nguyễn Trọng Huấn.
Cũng trong số 34, tôi viết bài “Vì sao tôi chọn thơ Trần Vàng Sao?”, vừa tỏ quan điểm của mình, vừa phân định trách nhiệm rõ ràng, do lúc đó, Tổng Biên tập Tô Nhuận Vỹ và nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đi thăm Bê-lô-rut-xia và Tạp chí Nhô-man kết nghĩa, số 32 tôi và Thư ký Tòa soạn Thái Ngọc San là người chịu trách nhiệm cuối cùng…
Cũng nên kể sơ qua lễ kỷ niệm 5 năm “Sông Hương”. Như đã nói ở trên, trong thời gian chuẩn bị lễ kỷ niệm, Tổng Biên tập Tô Nhuận Vỹ đi Liên Xô, nên tôi cùng Thư ký Tòa soạn Thái Ngọc San và Trưởng Ban Trị sự Võ Mạnh Lập phải “gánh” toàn bộ công việc. Tôi là người dễ ăn ngủ, nhưng lần đầu tiên trong đời, tôi đã thức gần như trắng đêm, vì dù sao mình cũng bị đặt ở cương vị “Tổng chỉ huy” buổi lễ. Gọi là “Tổng chỉ huy”, vì tại Tòa soạn có một bản đồ thể hiện các mũi “tiến công” - đó là các vị khách sẽ đến từ Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, rồi từ Liên Xô (đại diện Tạp chí Nhô-man kết nghĩa và nữ phóng viên ban Tiếng Việt Đài Mas-cơ-va) và cả từ Pháp (anh Lê Huy Cận và hình như có cả nhà nghiên cứu lịch sử Lê Thành Khôi nữa…); rồi các cộng tác viên từ Quảng Bình, Quảng Trị thân thiết nữa… - liệu các “mũi tiến công” đó có hướng nào bị trục trặc hay bị “sự cố” gì không?
Thật may là mọi chuyện xuôi lọt và buổi lễ đã diễn ra thân mật và long trọng tại Hội trường Viện Đại học Huế. Cũng may là sau buổi lễ, vụ việc bài thơ của Trần Vàng Sao mới xảy ra!...
Sau khi Tổng Biên tập Tô Nhuận Vỹ từ chức, rồi chuẩn bị tổ chức Đại hội Văn nghệ tỉnh cử Tổng Biên tập mới, nên “Sông Hương” đến đầu năm 1991 mới tái ngộ bạn đọc. Đó là số 1 (44) - Tết Tân Mùi 1991, với trang bìa của Bửu Chỉ vẽ con dê sừng ôm mặt trời, bụng “ôm” vòng tròn biểu tượng âm-dương, nhưng cũng không ghi tên Tổng Biên tập. Thực ra là tại bài “Ghi ở Đại hội” đã cho biết, sau khi Đại hội Văn học Nghệ thuật Thừa Thiên Huế lần thứ nhất họp từ 18 - 19/12/1990, Ban Chấp hành Hội họp phiên đầu tiên ngày 24/12/1990 đã cử tôi làm Tổng Biên tập với số phiếu 100%, nhưng Tạp chí số 1 (44) và cả 2 (45) ra tháng 3/1991 cũng không ghi Tổng Biên tập vì phải chờ sự chấp thuận chính thức của Ban Tuyên Huấn và Bộ Văn hóa - Thông tin. (Cũng vì thế mà trong cuốn sách công phu “Lịch sử báo chí Huế” của Nguyễn Xuân Hoa - Nxb. Thuận Hóa, 2013, ghi rằng Nguyễn Khắc Phê chỉ làm Tổng Biên tập 2 số 46 và 47!).
Anh em trong Tòa soạn và cả phong trào văn nghệ Thừa Thiên Huế vừa mới trải qua nhiều tháng ngày khốn khổ vì kiểm thảo lên xuống, đang hào hứng bước qua giai đoạn mới, quyết tâm xuất bản “Sông Hương” mỗi tháng một kỳ, tôi cũng như Ban Biên tập đều không muốn “gây sự”, bài vở số 1 và 2 (tức số 44 và 45) nói chung hiền lành; lại có nhà “Huế học” Nguyễn Đắc Xuân làm Phó Tổng Biên tập, nên dung lượng bài về văn hóa Huế khá đậm đặc (nào là “Bóng giai nhân - Một đêm trên sân khấu Huế” của Yến Lan, rồi “Nghệ thuật thơ Nguyễn Khoa Vy qua Thảo Am thi tập”, “Số phận của những khẩu thần công thời Nguyễn”, rồi hỏi chuyện Bửu Ý, “Chuyện cũ Cố Đô”, “Chè hạt sen”…).
Dù sao thì tôi cũng có lỗi với những bạn viết, bạn đọc yêu “Sông Hương” là đã để cho tờ Tạp chí phải “nghỉ giải lao” trong hơn nửa năm trời! Chính vì thế mà trong bài “chân dung tự họa” nhân mình trên 70 tuổi (“Những nút số 9 trong đời tôi” - Tản văn chọn lọc, Nxb. Văn nghệ TP. HCM), tôi đã viết: “…9 tháng làm Tổng Biên tập “Sông Hương”, nếu chín chắn hơn, đừng nóng vội và khôn khéo một chút để làm được 9 năm chẳng hạn, thì có “oách” hơn không?” Thực ra, đó là nói cho vui, chứ cái chức trách Tổng Biên tập một tờ Tạp chí địa phương - cho dù là tờ “Sông Hương” ít nhiều có tiếng vang trong nước - cũng có chi là “oách”; quyền lợi chẳng có gì mà cái cảnh “trên đe dưới búa”, làm sao cho bạn đọc và cộng tác viên thỏa mãn, nhưng không bị các cơ quan “chức năng” bắt bẻ “thổi còi” thì quá ư khốn khổ. Vì vậy, với góc độ riêng tư, phải thành thật nói rằng: May nhờ “thoát” khỏi chức vụ Tổng Biên tập “Sông Hương”, tôi mới có thời gian, có điều kiện để sáng tác một số tiểu thuyết ít nhiều được dư luận chú ý như “Thập giá giữa rừng sâu”, “Biết đâu địa ngục thiên đường”…
N.K.P
(SH313/03-15)
NGUYỄN ĐÌNH CHI
Hồi ký
KỶ NIỆM 102 NĂM NGÀY SINH CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH 19-5-1890 _ 19-5-1992.
THÁI VŨ
Nguyễn Phúc Đảm (sau này là vua Minh Mạng), sinh năm 1791 tại Gia Định, là con trai thứ 4 của Vua Gia Long, Nguyễn Phúc Ánh, nối ngôi vua năm 1820 lúc 30 tuổi.
TỪ HỒNG QUANG
Thông thường, khi vui người ta nghĩ đến những điều vui và kể lại cho bạn bè nghe. Nhưng ông cha ta có câu: “Không ai nắm chặt tay từ sáng đến tối”. Lại có câu: “Bảy mươi chưa hết què, chớ khoe mình lành”.
ĐÔNG HÀ
Tôi không biết từ đâu, tôi lại tha thiết yêu những câu hát đẹp như mơ được cất lên từ chị, có khi mưa ngoài trời là giọt nước mắt em đã nương theo vào đời làm từng nỗi ưu phiền…
HÀ KHÁNH LINH
Theo hẹn, tôi đến trước vài phút ngồi ở salon khách sạn Hương Giang - lơ đãng nhìn những người đi lại trong hành lang.
TRẦN NGỌC TRÁC
Như duyên nợ, chúng tôi đã đồng hành cùng nhau qua series ký sự “Trịnh Công Sơn nhẹ gót lãng du”(1).
PHẠM XUÂN PHỤNG
Vào đúng 9 giờ đêm 26 tháng 3 năm 1975, chúng tôi vui sướng đến nghẹn ngào nhận tin vui Huế đã được giải phóng qua sóng phát thanh của Đài Tiếng nói Việt Nam phát thanh từ Hà Nội. Tiếp đến là mệnh lệnh tất cả sẵn sàng hành quân về Huế. Không ai không mong chờ niềm vui ấy, nhưng những người lính quê Thừa Thiên, trong đó có tôi đều vui mừng vì sắp được trở lại quê nhà!
PHI TÂN
1.
Buổi chiều trên đường đi làm về thấy một chị phụ nữ bày bán những con heo đất bên vỉa hè màu xanh, đỏ, vàng, cam nhìn thật vui mắt.
PHẠM PHÚ PHONG
Hồi ức làm ta muốn khóc...
(Vasiliev)
TRẦN VIẾT ĐIỀN
Vua Minh Mạng có 78 hoàng tử, được giáo dưỡng đàng hoàng, hầu hết các hoàng tử có học hạnh, hoàng trưởng tử trở thành vua hiền Thiệu Trị, một số trở thành vương công nổi tiếng như Thọ Xuân vương, Tùng Thiện vương, Tuy Lý vương…
NGUYỄN NHÃ TIÊN
Chưa bao giờ tôi được lội bộ đùa chơi với cỏ thỏa thích như bao lần khai hội Festival ở Huế. Đêm, giữa cái triều biển người nối đuôi nhau từ khắp các ngả đường hướng về khu Đại Nội, tôi và em mồ hôi nhễ nhại, hai đôi chân rã rời, đến nỗi em phải tháo giày cầm tay, bước đi xiêu lệch.
HÀ KHÁNH LINH
Bão chồng lên bão, lũ lụt nối tiếp lũ lụt. Miền Trung Việt Nam nói chung và Thừa Thiên Huế nói riêng chưa bao giờ phải hứng chịu thiên tai dồn dập khủng khiếp đến mức chỉ trong vòng trên dưới một tháng mà có đến sáu cơn bão mạnh với hai áp thấp nhiệt đới, đã cướp đi nhiều sinh mạng và xóa sạch tài sản của những con người suốt một đời chắt chiu dành dụm xây cất lên...
PHẠM XUÂN PHỤNG
Một buổi chiều năm 1968, chúng tôi nhận lệnh tập trung tại một khu vườn thuộc làng (nay là phường) Kim Long.
HỒ ĐĂNG THANH NGỌC
Mười năm trước đây, một sự kiện văn hóa diễn ra tại Huế đã khiến nhiều người ngạc nhiên và tự hào: Huế từng có Nhà xuất bản Tinh Hoa xuất bản các ấn phẩm âm nhạc sớm nhất toàn cõi Đông Dương, sự kiện Gala Tinh Hoa - Sông Hương nhằm tôn vinh Nhà xuất bản Tinh Hoa. Sự kiện đó đã làm rung động nhiều trái tim yêu âm nhạc, nhất là những ai mê lịch sử Tân nhạc Việt Nam.
NGUYỄN THỊ TÂM HẠNH
(Dẫn liệu từ tuần báo Phong Hóa và Ngày Nay [1932 - 1940])
HÀ LÂM KỲ
Hồi ký
NGUYỄN QUANG HÀ
Tôi vốn là người lính. Sau Mậu Thân 1968, một số phóng viên báo Cờ Giải Phóng - Huế hy sinh, một số bị thương ra Bắc, tôi được thành đội trưởng Huế cử biệt phái sang làm phóng viên báo Cờ Giải Phóng, sau mấy năm thì trở thành phóng viên thật sự.
Kỷ niệm 75 năm ngày thành lập Liên hiệp các Hội Văn học Nghệ thuật Thừa Thiên Huế (18/9/1945 - 18/9/2020)
DƯƠNG PHƯỚC THU
NGUYỄN KHẮC PHÊ
"Đồng Khánh - mái trường xưa" là tên tập đặc san được phát hành tại Huế nhân kỷ niệm 75 năm ngày thành lập trường Đồng Khánh vào đầu tháng ba này.
Kỷ niệm 75 năm Cách mạng tháng Tám (19/8/1945 - 19/8/2020) và Quốc khánh (2/9/1945 - 2/9/2020)
DƯƠNG HOÀNG