“Sông dài như kiếm” những kỷ niệm yêu thương một thời chiến tranh

15:22 20/08/2008
NGUYỄN KHẮC PHÊNhà văn Nguyễn Quang Hà, trong lời bạt cuốn tiểu thuyết mượn câu thơ nổi tiếng của nhà thơ Cao Bá Quát (“Trường giang như kiếm lập thiên thanh”) làm nhan đề, đã xem đây là “những kỷ niệm đầy yêu thương suốt dọc đường chiến tranh” của mình.

Có lẽ ít có cuốn tiểu thuyết nào từ khi tác giả khởi thảo tới lúc sách ra mắt bạn đọc lại nhanh đến thế! Bản thảo viết xong ngày 27/6/2001 thì tháng 11/2001 đã có sách nộp lưu chiểu. Một cuốn sách dày 524 trang khổ 14,5x20,5 chữ nhỏ dày tít, cầm nặng cả hai tay chứ đâu có ít ỏi gì! Đây là một trong 8 tác phẩm đầu tiên “Hưởng ứng cuộc vận động sáng tác tiểu thuyết, trường ca và viết hồi ký về đề tài chiến tranh cách mạng và lực lượng vũ trang nhân dân (2001-2004)” được Nhà Xuất bản Quân đội Nhân dân ấn hành. Chưa bàn đến chất lượng tác phẩm, chỉ riêng số trang dày dặn và “tốc độ” vưà kể đã chứng tỏ sức lao động đáng nể và cách chọn đề tài rất “trúng” yêu cầu công tác chính trị tư tưởng hiện nay của tác giả.
“Sông dài như kiếm”(SDNK) chủ yếu dựa trên bối cảnh chiến trường Thừa Thiên-Huế trong giai đoạn gay go sau chiến dịch Mậu Thân 1968 với nhân vật chính là Phan Hưng - một “cột trụ” của phong trào sinh viên Huế, sau khi bị địch truy nã, đã lên rừng, trải qua không biết bao nhiêu là thử thách để rồi trở thành người tiểu đoàn trưởng một đơn vị anh hùng. Cách lựa chọn “lý lịch” nhân vật và bối cảnh của tiểu thuyết đã cho phép tác giả tái hiện được những sự kiện có tính tiêu biểu của một chiến trường quan trọng: phong trào đấu tranh nổi tiếng của sinh viên Huế, cuộc chiến đấu khốc liệt giành dân, diệt ác ôn, xây dựng cơ sở cách mạng, cuộc sống muôn vẻ ở chiến khu và những trận đánh xuất sắc của quân chủ lực... Với thế mạnh là “người trong cuộc” - Nguyễn Quang Hà từng là một người lính, từng “nằm gai nếm mật” tại chiến trường Thừa Thiên-Huế trong nhiều năm - các trận đánh trong SDNK đã được miêu tả một cách sống động, thể hiện tinh thần dũng cảm và sáng tạo tuyệt vời của quân đội ta. Mặc dầu tác giả không trực tiếp hoạt động trong phong trào đô thị, nhưng nhờ có dịp được tiếp xúc, được sống cùng nhiều nhân vật chủ yếu của “phong trào” trong những năm qua và nhờ nguồn sống gián tiếp (qua sách vở, thơ ca...), phần đầu của tiểu thuyết đã dựng lại khá sinh động cuộc đấu tranh của sinh viên Huế với nhân vật chính là Phan Hưng - chủ bút tờ “Tiếng gọi sinh viên” và các bạn thân thiết của anh như Hoàng Lan, Lê Phùng, Hoàng Dũng, Ý Thảo... Tiếc rằng, không khí những trang viết này tạo nên cùng những mối quan hệ giữa các nhân vật trẻ tuổi này hầu như kết thúc ngay khi Hưng bị địch truy lùng phải lên rừng. Riêng Hoàng Lan, người yêu của Hưng, về sau cũng lên rừng và gặp lại Hưng, nhưng cuộc tái ngộ ngắn ngủi của đôi trai tài gái sắc này, với “đỉnh điểm” là cảnh “tắm chung” dưới ngọn thác vô danh giữa Trường Sơn, chỉ là cái cớ để những kẻ đố kỵ làm hại Hưng, chứ không đủ sức làm “sống lại” các nhân vật của phong trào sinh viên Huế và gắn kết họ với những nhân vật và sự kiện chủ yếu của tiểu thuyết. Giá như mối quan hệ Phan Hưng-Hoàng Lan, cặp nhân vật có những vẻ đẹp tiêu biểu cho tuổi trẻ Huế được thể hiện xuyên suốt tác phẩm, trở thành linh hồn và xương sống của tác phẩm thì tiểu thuyết sẽ có kết cấu chặt chẽ hơn và có sức nặng hơn. Cũng có lẽ do tác giả không có ý định thể hiện sâu sắc và đầy đủ số phận loại nhân vật này cùng cuộc đấu tranh ở đô thị. Anh chỉ “mượn” nhân vật trí thức ở đô thị đem cọ xát với nhiều loại nhân vật khác trong cuộc chiến đấu khốc liệt, phức tạp địch-ta và cả trong tổ chức cách mạng, để làm bật nổi vấn đề. Quả là phần lớn số trang của tiểu thuyết đã dành miêu tả số phận long đong của Hưng. Anh lên rừng trong một hoàn cảnh éo le: Hiệp Vũ, thành uỷ viên - người trực tiếp chỉ đạo phong trào sinh viên, người duy nhất có uy tín “làm chứng” cho quá trình hoạt động ở đô thị của anh - bị địch giết hại. Vậy biết đâu Hưng là do CIA cài vào! Cái nghi án không hề có bằng chứng này đeo đẳng gần suốt chặng đường chiến đấu của anh: từ Ban dân vận chuyển sang đơn vị vận tải, rồi bị đẩy đi “trại sản xuất” và xuýt bị một “quan cách mạng” biến chất âm mưu thủ tiêu... Chính Lê Việt, người chiến sĩ an ninh đưa anh lên rừng, đã giải thoát cho anh. Với “mô-típ” gần như trong truyện cổ tích, cứ mỗi lúc gặp hiểm nguy do kẻ Ác gây ra, Hưng lại được ông Thiện phù trợ. Ở Ban Dân vận là Bí thư Thanh niên Thanh Trúc, về Đội Vận tải thì có Dư và Sa, khi không còn chỗ dung thân lang thang trong rừng, xuýt lọt vào ổ biệt kích thì gặp được Lê Văn Sích, một chỉ huy tài năng của quân chủ lực... Đặc biệt may mắn, Hưng đã được gặp con người huyền thoại Thân Trọng Một. Với tấm lòng độ lượng, với con mắt tinh tường của một nhà lãnh đạo từng trải, ông đã đón nhận Hưng như là một nhân tài. Cùng với Thân trọng Một, các nhân vật quần chúng bình thường như cô Bé cấp dưỡng ở Trạm trực Ban Dân vận, cô giao liên An Châu, những bà mẹ thầm lặng ủng hộ cách mạng ngay dưới nanh vuốt kẻ thù và cả người cha già cùng cô em gái của Hưng, được tác giả thể hiện bằng những trang viết sinh động với lòng ngưỡng mộ và tình yêu chân thật đã trở thành những “điểm sáng” của tiểu thuyết, cho dù họ chỉ xuất hiện như một ánh sao băng.
Với sự “dàn quân” như thế, tác giả đã có điều kiện gửi gắm những ý tưởng, những điều chiêm nghiệm từ điểm nhìn hôm nay, khi cuộc chiến tranh đã kết thúc gần ba chục năm. Đó là mối nguy hại khi những kẻ cơ hội, đố kỵ, bè phái giỏi nịnh bợ và khéo nấp ô dù chiếm được chỗ ngồi quan trọng trong tổ chức cách mạng, là bài học về dân chủ và thái độ tôn trọng nhân tài của người lãnh đạo... Vì thế, tuy những sự kiện diễn ra trong SDNK đã xảy ra cách đây ba thập kỷ, nhiều trang viết vẫn nóng bỏng tính thời sự. Có điều, người đọc hẳn là không khỏi phân vân trước một nhân vật bất tài, xấu xa nhiều mặt như Phú Nhuận lại có đất sống giữa cuộc chiến gian khổ và leo lên được chức Bí thư Huyện uỷ. (Đã đành, về sau, y đã bị vạch mặt, bị cách chức.) Vì tác giả sốt sắng muốn cảnh báo những tệ nạn trong đời sống xã hội hiện nay mà tô đậm nhân vật, hay cuộc sống vốn đầy cạm bẫy, phức tạp khiến con người thiếu bản lĩnh có thể tha hoá đến như vậy?
Chắc là để “tự vệ” trước lối phê bình tác phẩm văn nghệ thô thiển đem nhân vật, sự kiện trong sách đối chiếu với sự thật ở nơi này, nơi kia, nên trong “Lời bạt”, tác giả đã “xin không suy diễn”. Điều đó là rất cần thiết, nhưng mặt khác, nếu như trang viết thật sự có sức thuyết phục thì chẳng ngại gì sự “suy diễn”; khi đó, kẻ hay suy diễn chỉ làm trò cừơi cho thiên hạ mà thôi. Nhiều đoạn trong SDNK, nhất là đoạn kết, người đọc có cảm tưởng tác giả còn chạy theo chuyện, chứ chưa dụng công gọt rũa văn chương, chưa chú ý khắc hoạ tâm lý và tính cách nhân vật. Có thể tác giả muốn thể hiện nhịp điệu các cuộc hành quân và tính cách người lính qua tiết tấu câu chuyện và ngôn ngữ - câu văn trong SDNK thường gãy gọn, nhân vật thường nói “huỵch toẹt” ý nghĩ của mình; nhưng không phải chỗ nào cũng tạo được ấn tượng tốt. (Ví như khi Lan tỏ ý muốn xuống thác tắm, tác giả viết: “Tự nhiên Lan hứng lên...”; hoặc những câu có tính “đúc kết” cuối một đoạn văn thường không cần thiết và gây phản cảm: “Đó là một trong những hạnh phúc của người lính”; “Đó là biểu hiện một sự chăm sóc.”...)
Một tác phẩm không chỉ được ra mắt bạn đọc nhanh chóng mà còn được viết với một tốc độ “kỷ lục”(tác giả cho biết đã hoàn thành tác phẩm trong 2 tháng ngồi Trại viết Đà Lạt) nên chưa đạt đến độ hoàn mỹ là điều dễ hiểu. Tuy vậy, cần bổ sung thêm một chi tiết: Sau lần xuýt phải vĩnh biệt bạn bè vì căn bệnh hiểm nghèo, Nguyễn Quang Hà đã nhiều lần nói: “Làm được cái gì hay cái ấy, chứ mình chưa biết chết lúc nào đây!”
Thế nên chúng ta càng trân trọng những “cái” nhà văn đã làm được trong những năm tháng này, trong đó có tiểu thuyết “Sông dài như kiếm” vừa đến tay bạn đọc giữa những ngày xuân mới.

Trường An-Huế, những ngày đầu Xuân 2002
N.K.P.
(nguồn: TCSH số 159 - 05 - 2002)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGUYỄN DUY TỪ

    Kỷ niệm 120 năm ngày sinh (1894), 60 năm ngày mất (1954) của nhà văn Ngô Tất Tố

  • PHẠM ĐỨC DƯƠNG

    GS.TS Phạm Đức Dương, nguyên là Viện trưởng Viện nghiên cứu Đông Nam Á, Tổng biên tập 2 tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á và Việt Nam Đông Nam Á; Chủ tịch Hội Khoa học Đông Nam Á, Viện trưởng Viện nghiên cứu Văn hóa Phương Đông...

  • CAO QUẢNG VĂN

    “Bồng bềnh xanh mãi bao niềm nhớ:
    Huế ở trong lòng người phương xa…”

  • TRỊNH SƠN

    Có những người, hiếm thôi, khi đã gặp tôi thầm ước giá như mình được gặp sớm hơn. Như một pho sách hay thường chậm ra đời.

  • HÀ KHÁNH LINH

    Người xưa nói: Cung kiếm là tâm, là cánh tay vươn dài của võ sĩ; Bút là tâm nối dài của Văn Sĩ. Khi đọc tập truyện ngắn UẨN KHUẤT của Kim Quý, tôi nghĩ phải chăng khi không thể tiếp tục hóa thân thành những nhân vật trên sân khấu, nghệ sĩ ưu tú Kim Quý đã cầm bút để tiếp tục thể hiện những khát vọng cao đẹp của mình.

  • BÙI VĂN NAM SƠN

    Trong “Bùi Giáng, sơ thảo tiểu truyện”(1), nhà phê bình văn học Đặng Tiến nhận định có tính tổng kết về văn nghiệp Bùi Giáng như sau: “Trên cơ bản, Bùi Giáng là nhà thơ”.

  • YẾN THANH

    (Đọc Thi pháp tiểu thuyết Vũ Trọng Phụng của Nguyễn Thành)

  • PHAN NAM SINH

    (bàn thêm với nhà nghiên cứu Lại Nguyên Ân)

  • Sau 2 công trình nghiên cứu đồ sộ, biên soạn công phu “Thưởng ngoạn Đồ sứ kí kiểu thời Nguyễn (1082 - 1945)” và “Đồ sứ kí kiểu Việt Nam thời Lê Trịnh (1533 - 1788)”, NXB Văn Nghệ 2008 và 2010, vào đầu tháng 3.2014, bộ sách Đại lễ phục Việt Nam thời Nguyễn 1802 - 1945 (khổ lớn 27x27 cm, NXB Hồng Đức), do nhà nghiên cứu Trần Đình Sơn biên soạn đã được ra mắt tại Thư viện Khoa học tổng hợp TPHCM.

  • NGUYỄN NHÃ TIÊN

    Có một con đường mà tôi đi hoài không hết Hội An. Dường như cái phố cổ ấy luôn thường hằng phát đi một tín hiệu: nhớ. Lại thường chọn rất đúng cái khoảnh khắc con người ta nhớ mà rót cái tín hiệu ấy tới.

  • LTS: Tiểu thuyết "Huế mùa mai đỏ", tập I, của Xuân Thiều đề cập đến một thời điểm lịch sử của chiến trường Trị Thiên cũ trong chiến dịch Mậu Thân.

  • ĐẶNG TIẾN

    Nhà thơ Phạm Thiên Thư là một tác gia dồi dào, đã in ra hằng vài ba trăm ngàn câu thơ, có lẽ là kỷ lục về số lượng trong nền văn chương tiếng Việt, vượt xa Bùi Giáng.

  • VÕ TẤN CƯỜNG

    Đinh Hùng - một hồn thơ kỳ ảo với vũ trụ thơ thuần khiết, song hành với thực tại là hiện tượng thi ca đầy phức tạp và bí ẩn. Số phận cuộc đời của Đinh Hùng và thi ca của ông chịu nhiều oan trái, bị chìm khuất dưới những dòng xoáy của thời cuộc cùng với những định kiến và quan niệm hẹp hòi về nghệ thuật…

  • TÔ NHUẬN VỸ
    (Nhân tiểu thuyết Đời du học vừa ra mắt bạn đọc)

    Tôi thích gọi Hiệu (Lê Thị Hiệu) hơn là Hiệu Constant, nhất là sau khi đọc, gặp gỡ và trò chuyện với Hiệu.

  • PHẠM PHÚ PHONG

    Từ khi có báo chí hiện đại phát triển, nhất là báo in, văn chương và báo chí có quan hệ hết sức mật thiết. Nhiều nhà báo trở thành nhà văn và hầu hết các nhà văn đều có tác phẩm in báo.

  • NGUYỄN ĐĂNG ĐIỆP

    Anh không thấy thời gian trôi...
    Ám ảnh về cái chết có lẽ là ám ảnh lớn nhất mỗi đời người vì mỗi phút trôi qua là một bước con người xích lại gần hơn với cái chết. Sống gửi thác về...

  • BÙI VIỆT THẮNG

    (Phác vẽ quang cảnh truyện ngắn năm 2013)

  • Bỗng dưng trời chuyển mát, như thế một mùa thu hiếm hoi nào bất ngờ đột nhập vào giữa những ngày hè chói chang của Huế. Chiếc xe đạp già nua, bướng bỉnh của tôi xem ra có vẻ nhạy cảm với thời tiết nên đã chịu khó tăng tốc, giúp tôi kịp đến tòa soạn Tạp chí Sông Hương đúng giờ hẹn. Cuộc tọa đàm thân mật với tác giả trẻ Nguyễn Quang Lập.

  • THIẾU SƠN

         * Vĩnh Quyền sinh năm 1951 tại Huế, tốt nghiệp Đại học Sư phạm và cử nhân Văn khoa Huế 1974.

  • MAI VĂN HOAN

    Không hiểu sao nghĩ về Hoàng Vũ Thuật tôi lại nhớ đến Những bông hoa trên cát; mặc dù anh đã có thêm Thơ viết từ mùa hạ và Gửi những ngọn sóng.