Hình bìa gốc "Ngục trung nhật ký" - Ảnh: wikipedia.org
Từ một số giả định, có thể nêu Nhật ký trong tù có được trong tay chúng ta hôm nay như một sự may mắn ngẫu nhiên. Ngẫu nhiên, như chính Bác nói: “Các chú không nhắc thì Bác cũng không nhớ đến nữa…” (1) *** Trở lại một chút tình hình trước khi có tập thơ. Trên hai mươi năm sử dụng “vũ khí của tiếng nói” Bác đã viết bằng nhiều thứ tiếng, trên rất nhiều báo chí, các bài văn thuộc dạng tiểu phẩm, bút chiến, truyện ký, chính luận, thư từ, kêu gọi… Thơ, là thể loại Bác chưa dùng, hoặc nói đúng hơn, còn ít dùng. Bác chỉ làm thơ như một hình thức bổ sung cho văn, để diễn giải nội dung văn xuôi cho dễ nhớ, dễ truyền tụng. Như “Việt Nam yêu cầu ca”, nhằm đưa nội dung tám yêu sách gửi Hội nghị Véc-xay về với đồng bào. Như lời cổ động cho tờ Việt Nam hồn, Bác dự định làm bằng tiếng Việt bên cạnh tờ Le Paria. Hoặc để điểm xuyết vào văn như một hình thức gắn nối, gợi dẫn của truyện chương hồi cũng để cho dễ nhớ, dễ thâu tóm, như những câu lục bát trong Nhật ký chìm tàu. Hai mươi năm trong niềm trông đợi của người dân Việt Nam, Bác là nhà cách mạng vĩ đại Nguyễn Ái Quốc, là nhà báo, nhà chính luận, chứ chưa là nhà thơ. Ba mươi năm xa tổ quốc, hẳn có biết bao tình huống, bao cảnh ngộ mà một người từng trải và giàu tình cảm lớn như Bác có thể làm thơ. Nhưng thơ - trực tiếp cho công chúng đồng bào, đó là điều, do cách bức về không gian, nên Bác không dễ có hoàn cảnh thực hiện. Còn thơ - cho mình, như một cách ngụ tâm sự, phô diễn tình cảm, thì hoàn cảnh một người cách mạng chứ không phải nhà thơ chuyên nghiệp - hẳn Bác thấy có bao nhiêu việc cần thiết hơn. Giờ đây đã đến lúc Bác có thể và cấp bách phải về nước. Ở địa đầu tổ quốc, vào ngày lịch sử 8-2-1941, nếu có giây phút đầu tiên, Bác hôn lên nắm đất, thì ở những ngày, những tháng tiếp đó là cảm hứng và non xanh nước biếc quê nhà. Phải nói cảm xúc đó là nồng nàn, nên mới nhanh chóng có được, sau bao năm không làm thơ, hai bài tức cảnh về Pác bó; cùng sau đó ít lâu bài thơ chữ Hán đầu tiên, bài Thượng Sơn, khi cơ quan rời về Lũng Dẽ. Ấy là những bài hiếm hoi ghi nhận được cái phong thái ung dung, thích thảng, như một chút “xả hơi” - nếu được phép nói vậy - sau ba mươi năm bôn tẩu trên hàng chục vạn dặm đường… Biết bao việc trọng đại của đất nước, của cách mạng đã dồn đến, đang chờ đợi Bác. Trong vị trí Tổng chỉ huy toàn bộ các lực lượng cách mạng của dân tộc, nhằm xốc tới ngày tổng khởi nghĩa, Bác vẫn tiếp tục sử dụng vũ khí tiếng nói. Nhưng tiếng nói đó vào lúc này là ở thư Kính các đồng bào, sách Cách đánh du kích, phép dùng binh, cách huấn luyện cho quân đội, là ở những trang dịch Lịch sử Đảng cộng sản Liên Xô, cùng các diễn ca lịch sử và địa lý nước nhà. Đồng thời, cũng phải đến lúc này, thơ lại đến với Bác như một phương tiện hiệu quả để chuyên chở nội dung cách mạng. Chỉ khoảng hơn một năm, Bác đã làm đến mấy chục bài thơ trong dạng tuyên truyền cổ động để kêu gọi các tầng lớp đồng bào. Người đã viết bằng nhiều thứ tiếng nước ngoài, tra cứu hàng trăm cuốn sách nơi các trung tâm văn hoá lớn, rồi đây cũng sẽ là người biết cách chọn lời, chọn chữ sao cho đơn giản nhất, để mỗi người dân ít chữ hoặc mù chữ cũng có thể hiểu được. Và do yêu cầu đó nên báo chí càng là phương tiện tích cực để phổ biến thơ văn. Sẽ là văn ngắn gọn ai đọc cũng hiểu; và sẽ là thơ trong các thể dạng dân gian quen thuộc để cho ai nghe cũng nhớ, và lưu truyền. Thế mà giữa lúc công việc cách mạng hết sức bề bộn, khẩn trương, và niềm tâm nguyện viết cho đồng bào vừa mới thực hiện và có hiệu quả, thì Bác bị bắt. Rồi cuộc hành trình gian khổ, suốt mười bốn tháng trời trên phần đất Quảng Tây Trung Quốc lại sẽ là hoàn cảnh cho ra đời Nhật ký trong tù, với trên một trăm bài thơ chữ Hán. *** Vậy là có một hoàn cảnh khách quan và chủ quan rất đáng chú ý đã thôi thúc Bác làm thơ vào buổi đầu những năm bốn mươi. Và thơ đã xuất hiện với một độ cao - mấy chục bài thơ và diễn ca bằng tiếng Việt, viết cho đồng bào, và trên trăm bài thơ chữ Hán dường như chủ yếu viết cho mình. Dễ nhận rõ một điều không bình thường. Đó là cái hoàn cảnh “đòi” Bác phải có thơ, hoặc gợi thi hứng nhiều nhất nơi con người thơ của Bác lại là một hoàn cảnh thật sự căng thẳng và khắc nghiệt. Có thể nói đó là những năm tháng Bác phải sống gian khổ và nguy hiểm nhất. Đã đành lúc này Bác có hạnh phúc được về trong lòng tổ quốc, cùng đồng chí đồng bào trực tiếp chung, lo việc lớn… đã đành cái nhìn của Bác bao giờ cũng là cái nhìn lạc quan, để thấy “cuộc đời cách mạng” với cảnh sáng tối vào ra nơi hang núi, cùng “cháo bẹ rau măng” là “sang”… Nhưng rõ ràng, so với mọi tình cảnh trước đây, dầu là người phụ bếp trên tàu, người quét tuyết ở Luân Đôn, người tìm việc làm nơi ngõ hẻm Công poanh, người rong ruổi trên các trục đường hàng vạn dặm xuyên hai đại lục Âu Á, hoặc người tù của thực dân Anh ở Hương Cảng… thì sự vất vả, thiếu thốn, hiểm nguy lúc này còn có phần hơn. Rồi sẽ đến với Bác tình cảnh gian truân gấp bội khi sa vào tay bọn Tưởng. Cảm thông với ông Phan Nhuận, muốn có một bản dịch lột tả được tinh thần Nhật ký trong tù, ngày ngày đến ngục Xăng-tê để lấy “không khí”, để có dịp cảm nhận bằng da thịt nỗi khổ của người tù. Nhưng tình cảnh của tù Tưởng thì khó có nơi đâu so sánh được. Thế nhưng chính trong hoàn cảnh đó, chính vào lúc gian khổ nhất về vật chất, và căng thẳng nhất về tinh thần, Bác lại có thơ. Vậy tình huống gì đã xảy ra ở đây? Tình huống gì đã tạo nên, trong vài mươi tháng trời, sự tuôn chảy dào dạt của cả một nguồn thơ đổ về hai hướng, để rồi dồn tụ vào biển cả thơ ca cách mạng? *** Hai phương diện có thể xét đến, như là nguyên cớ trực tiếp để hiểu hoàn cảnh thơ đã đến với Bác vào lúc này. Trước hết, đây chính là lúc nhà cách mạng và nhà thơ Nguyễn Ái Quốc đã có điều kiện tiếp xúc trực tiếp với quần chúng, đồng bào. Người mà tâm trí luôn luôn như chiếc kim địa bàn nhậy bén và kiên định quay trở về dân tộc, người luôn luôn đặt ở hàng đầu phương châm: Viết cho ai? Hẳn sẽ tràn đầy một niềm cảm động và hứng khởi khi có dịp trực tiếp chuyện trò, tâm sự với mọi tầng lớp nhân dân về cái vấn đề sinh tử nhất là giành lại cho họ quyền sống, cơm áo, và tự do. Và ở một phương diện khác, khi mạch thơ đang tuôn chảy ấy bị ngắt quãng, vì cảnh tù đày; khi sự cách bức với công chúng cụ thể khiến Người không có hoàn cảnh và không còn được tự do trò chuyện… thì một tình thế thơ khác đã xuất hiện. Một tình thế “kép”, vừa phải, “đối phó” hết sức khôn khéo với một ngoại cảnh cực kỳ nguy hiểm, vừa phải “thỏa mãn” nhu cầu phô diễn chân thực những trạng huống mới của cảm xúc, và đối thoại với chính mình. Nói động tác “đối phó” là để chỉ sự vận dụng sách lược đối với các loại kẻ thù, là nói nhãn giới của nhà chính trị. Nhưng điều đó lại không được gây cản trở cho yêu cầu phô diễn chân thực thế giới nội tâm, và cảm xúc của nhà thơ. Và cả hai, như ta thấy, đã tìm được sự hòa hợp nơi Nhật ký trong tù. Sự chọn dùng ngôn ngữ Hán Việt cùng thơ luật Đường khiến cho ta nghĩ hẳn chắc Bác không nhằm viết cho một công chúng cụ thể nào. Và đó là điều khác trước, cũng có thể là một “ngoại lệ” trong đời viết của Người. Nhưng không nhằm vào một công chúng cụ thể, không có nghĩa là thơ. Người không gắn với một bối cảnh đặc biệt của thời cuộc. Nếu đối với bản thân Bác - người tù, đây là lúc mọi nỗi gian truân, hiểm nguy cùng lúc dồn đến, nó là phần “hiện thực” không thể không vang vọng, không lưu lại dấu ấn trong dạng nhật ký - thơ ; thì đối với đất nước, đây lại là lúc tình hình đang chuyển biến từng ngày để hướng vào cao trào cách mạng; để nhanh chóng giành đoạt thời cơ khởi nghĩa mà Người từng tiên đoán từ cuối năm 1941, trong dòng cuối diễn ca Lịch sử nước ta. Chính thời cơ cách mạng đang nhen nhóm, đang trở thành hiện thực, vốn là kết quả của cả một khoa học tuyên truyền, vận động, tổ chức cách mạng hết sức vĩ đại mà Đảng ta đã tiến hành, hẳn là nền cảnh, là niềm thôi thúc, góp phần giúp ta cắt nghĩa nguồn thơ lớn của Nhật ký trong tù. Người tù tác giả hơn trăm bài thơ ra đời trong khoảng thời gian và không gian chật hẹp kia, cũng chính là Người đã góp công lớn nhất, đã dành trọn ba mươi năm, đi khắp chân trời góc biển, để tìm kiếm và tạo dựng nên tình thế cách mạng đã sáng bừng lên ở chân trời quê hương. Người tù - người đang phải chịu mọi sự đày ải, người đang trải những tâm trạng bực bội, bất lực, buồn thương, xót xa, cay đắng, và có lúc bi thảm nữa, cũng là người đang tỏa rộng lòng mình để đón nhận mọi tín hiệu đến từ phía ánh sáng của ngày mới; và do vậy sao không hứng khởi, lạc quan, tràn đầy niềm sinh thú, trước viễn cảnh của việc trồng cây sắp đến ngày hái quả. *** Như vậy đối với Bác, tình huống vào tù lúc này không phải là sự bó tay, mà chỉ là một sự chuyển đổi môi trường hành động. Vẫn người cách mạng, nhưng hoàn cảnh đã thay đổi. Nhưng trong sự thay đổi của hoàn cảnh, con người của ý chí, nghị lực và niềm tin vẫn là một dấu hiệu nhất quán. Khỏi phải nói lại tất cả sự đầy đọa mà chế độ nhà tù Tưởng đã dồn cho Bác: từ cảnh muỗi rệp, ghẻ lở, ăn đói mặc rét, bị giải tới giải lui trên ba chục nhà lao của huyện xã, rồi ốm đau bệnh tật, sức khỏe suy kiệt… mà một phần nhỏ, nhờ vào hình thức thơ - nhật ký ta có thể thấy qua Nhật ký trong tù. Quá hiếm có tập thơ nào nói được nhiều “sự thật” đến thế. Sự thật về một trạng huống xã hội, và sự thật về nỗi đầy đọa cho một con người. Nhưng dường như “sự thật” đó không phải là điều mà tập thơ muốn đạt, và tác giả muốn khai thác cặn kẽ. Nói cách khác, chất “nhật ký” ghi việc hàng ngày không chèn lấn chất thơ. Phần sâu đậm vẫn là toát lên từ một thế giới khác. Sau cận cảnh: …Bị trói chân tay hoặc: Lủng lẳng chân treo tựa giáo hình là bối cảnh: Chim ca rộn núi, hương bay ngát rừng (Trên đường) và: Làng xóm ven sông đông đúc thế Thuyền câu rẽ sóng nhẹ thênh thênh (Giữa đường đáp thuyền đi Ung Ninh) Một thế đối xứng thơ quen thuộc như vậy có thể tìm thấy ở nhiều bài trong Nhật ký trong tù. Tôi không muốn nói cái khía lãng mạn và lạc quan cách mạng của nội dung, toát lên từ sự tương phản như trên, có ở rất nhiều bài thơ mà ai cũng rõ. Tôi muốn nói: một hoàn cảnh sống dày vò, đày đọa con người đến như Bác phải chịu đựng, vẫn không cản Bác làm thơ. Và đó chính là biểu hiện của ý chí tự do, của sức mạnh tinh thần, của khả năng làm chủ ngoại cảnh và làm chủ bản thân cực kỳ mạnh mẽ nơi Bác. Bác làm thơ, vì đó là điều mà hoàn cảnh tù - dẫu tàn bạo đến đâu - cũng không ngăn cản Bác được; và vì ở vào hoàn cảnh tù, người tù không có thể làm gì khác được ngoài làm thơ. Có cần nói thêm: trong hình thức nhật ký - thơ, thì nội dung nhật ký, ghi việc hàng ngày, là điều một số người cách mạng đã làm. Nhưng cho nó một hình thức thơ, và tạo được chất thơ thực sự cho nó, trong một hoàn cảnh như của Bác - có khác với nhiều chí sĩ cách mạng trước đây - thì quả là điều không dễ. *** Nhưng những khổ ải vật chất, dẫu lớn, vẫn không phải là chuyện dày vò Bác nhiều nhất. Nỗi khổ chính ở Bác vẫn là sự mất tự do, ở sự cầm tù, trong khi tình thế cách mạng đang cần sự có mặt của mình: Cay đắng chi bằng mất tự do (Cảnh binh khiêng lợn cùng đi) Chính nỗi khổ đó mới là nguyên nhân chính, tạo nên những câu thơ lúc bực dọc, cáu kỉnh: Tráng sĩ đua nhau ra mặt trận Hoàn cầu lửa rực bốc trời xanh Trong ngục người nhàn, nhàn quá đỗi Chí cao mà chẳng đáng đồng trinh (Buồn bực) Lúc da diết, ưu tư: Ngày đi tiễn bạn đến bên sông Hẹn bạn về khi lúa đỏ đồng Nay gặt đã xong, cày đã khắp Quê người tôi vẫn chốn lao lung (Nhớ bạn) Thậm chí có lúc bi thảm: Nghìn dặm bâng khuâng hồn nước cũ Muôn tơ vương vấn mộng sầu nay Ở tù năm trọn thân vô tội Hòa lệ thành thơ tả nỗi này. (Đêm thu) Giữa bao nhiêu tâm trạng trái ngược mâu thuẫn như vậy. Bác vẫn làm thơ. Và đó tiếp tục là điều lạ. Lo nghĩ bao nhiêu việc lớn, nếu được tự do như trước, hoặc ngay lúc này, nếu được tự do, hẳn Bác sẽ tiếp tục làm thơ như một hành động hướng ngoại, hướng về quần chúng đông đảo, vì đó mới chính là công việc cấp bách của cách mạng; là điều hợp với sở nguyện của Bác, sau bao năm mong đợi, chứ không phải là tình trạng “nhàn rỗi”. Ngày dài ngâm ngợi cho khuây… Thế nhưng, nếu vì hoàn cảnh không may mà người cách mạng bị tù tội và buộc chỉ có thể làm thơ thôi, như là một hành động tự do không ai ngăn cấm được, thì nội dung thơ sẽ phải là sự tâm nguyện, sự tiếp tục của nghị lực và ý chí, nhằm khẳng định nhân cách, bất chấp hoàn cảnh tàn bạo của nhà tù. Thay vì những bài thơ viết cho đồng bào, Bác sẽ có thơ như một cách ngụ tâm sự. Bên cạnh những bài nói nỗi bực dọc hoặc ưu tư, do sự bất lực, bị “trói tay chân”, cả nghĩa bóng và nghĩa đen, sẽ có những bài Bác làm như một cách tự nhắc nhủ, tự động viên: Gạo đem vào giã bao đau đớn Gạo giã xong rồi trắng tựa bông (Nghe tiếng giã gạo) như một sự đúc rút kinh nghiệm: Phải nhìn cho rộng suy cho kỹ Kiên quyết không ngưng thế tiến công (Học đánh cờ) Tôi không nghĩ đó là những bài, những câu Bác làm nhằm giáo dục người khác; những bài, những câu mà hôm nay hiển nhiên đã trở thành cẩm nang cho sự tu dưỡng của mọi chúng ta, đã thành nguồn sức mạnh cho cả một nền thơ chiến đấu, một nền thơ có thép Việt Nam. Bác chỉ nhằm viết cho mình. Vì đối với Bác, cũng như đối với bất cứ nhà cách mạng và nhà thơ chân chính nào, thơ là một hình thức hoạt động của cảm xúc và trí tuệ, thơ là sự thỏa mãn nhu cầu tinh thần của con người hành động. Ở hoàn cảnh bị tù đày, nhu cầu hành động có khi chỉ là một cuộc độc thoại bên trong, một cuộc đối thoại với chính mình. Người cách mạng, ngay cả những đại diện tuyệt vời như Bác cũng luôn luôn đặt yêu cầu tu dưỡng, tự vấn, tự răn mình. Không có những phẩm chất tự nhiên mà có. Hoặc có một lần rồi nguyên vẹn mãi: Hiền, dữ phải đâu là tính sẵn Phần nhiều do giáo dục mà nên (Nửa đêm) *** Sau 14 tháng trời bị đày ải, Bác mới được trả lại tự do; và phải hơn một năm nữa Bác mới về tới nước. Biết bao chuyện bận rộn, căng thẳng để chuẩn bị cho thời cơ giải phóng “chỉ ở trong một năm hoặc năm rưỡi nữa” (2) khiến Bác đã quên tập thơ. Cùng với công tác lãnh đạo, tổ chức, tuyên truyền cách mạng, Bác vẫn tiếp tục viết, nhưng là viết các chỉ thị, viết Lời kêu gọi tổng khởi nghĩa, và tiếp đó, bắt tay vào soạn thảo Tuyên ngôn độc lập. Như vậy Nhật ký trong tù có sự hình thành và tuổi thọ 14 tháng, rồi lại tiếp tục cuộc sống im lặng của nó, vì chắc tác giả của hàng trăm bài thơ kia không hề nghĩ đó là áng văn cần đưa cho mọi người; và vì, như tác giả nói, trong một vài dịp sau này, đó là một cách để “tiêu khiển”, hoặc “giết thời gian”. Một tập thơ dường như ngẫu nhiên mà ra đời, rồi ngẫu nhiên bị quên; thế mà ngót hai mươi năm sau, lại gây một sự kiện vang dội. Một sự kiện không ngẫu nhiên. Biết bao người, trong đó có không ít nhà văn hóa lớn, hoặc nghệ sĩ tên tuổi ở trong nước và trên thế giới đã nói về giá trị lớn của tập thơ. Và giờ đây, giá thử nếu thiếu đi Nhật ký trong tù, nếu vì một sự sắp xếp nào khác của lịch sử, để không có tập thơ, hẳn ta sẽ thấy một sự trống thiếu rõ rệt biết chừng nào. Nếu hình dung cả cuộc đời như một dòng sông lớn chảy từ nguồn ra biển, thì Nhật ký trong tù phải chăng có thể xem là một khúc sông lặng trước lúc đổ ra đại dương. Một khúc lặng, có xoáy ngầm, nhưng trong suốt tận đáy, để cho ta soi mà nhận ra chân dung Bác, và qua Bác, mà nhận ra gương mặt dân tộc. Để thấy như một bạn thơ nước ngoài, với Nhật ký trong tù “không có một đỉnh cao nào mà con người lại không vươn tới được (3). Ba mươi năm Bác xa tổ quốc, trong thân phận người dân một đất nước còn bị nô lệ, và trong những gian lao người cách mạng phải nếm trải, phải thay tên đổi họ hàng trăm lần, Bác không muốn để lại dấu vết gì về mình. Ở tất cả các bài báo, thư từ, tiểu phẩm… Bác không hề có ý nghĩ làm văn chương càng không có chủ định miêu tả hoặc tự họa… Thế rồi có lúc, Bác đã làm việc đó, một cách không có chủ định, không có chuẩn bị… Có điều, vấn đề quan trọng không phải Bác đã là nhà thơ lớn từ năm 1943 khi có Nhật ký trong tù, hoặc phải chờ đến năm 1960, khi tập thơ được phát hiện. Đối với Bác, trước sau Bác đều khéo léo không nhận mình là nhà thơ. Điều quan trọng là, với tất cả phẩm chất của một tác phẩm nghệ thuật lớn Nhật ký trong tù đã sống cuộc sống xứng đáng của nó, đã gieo trồng được những giá trị văn minh và nhân đạo cao nhất vào đời sống tinh thần của dân tộc và nhân loại tiến bộ, từ mấy chục năm qua. Và Nhật ký trong tù hôm nay vẫn tiếp tục công việc gieo trồng đó một cách rực rỡ, như chính tên tuổi và sự nghiệp của người đã sinh thành ra nó, hay nói cho phù hợp hơn, đã “hái lượm” được nó, như một sự ngẫu nhiên trên lộ trình gian nan và vĩ đại của đời mình. P.L. (13/6-85) ----------------- (1). T.Lan: Vừa đi đường vừa kể chuyện; NXB Sự thật; 1976; tr.83. (2). Thư gửi đồng bào toàn quốc, tháng 10-1944, Hồ Chí Minh tuyển tập, Nxb Sự thật; 1980; tr.344. (3). Phôlích Pita Rôdri ghêt : Nghiên cứu học tập thơ văn Hồ Chí Minh; Nxb Khoa học xã hội; 1979; tr.545. |
PHẠM PHÚ PHONG"Tôi ngồi nhớ lại tất cả nỗi trầm tư dài bên cạnh mớ hài cốt khô khốc của anh Hoàng. Trước mắt tôi, tất cả cuộc sống đầy những hùng tráng và bi thương vốn đã từng tồn tại trên mảnh đất rừng này, giờ đã bị xoá sạch dấu tích trong sự câm nín của lau lách. Như thế đấy có những con đường không còn ai đi nữa, những năm tháng không còn ai biết nữa, và những con người chết không còn hắt bóng vào đâu nữa...
LÊ THỊ HƯỜNG1. Yêu con người Hoàng Phủ Ngọc Tường trong thơ, quý con người Hoàng Phủ trong văn, tôi đã nhiều lần trăn trở tìm một từ, một khái niệm thật chính xác để đặt tên cho phong cách Hoàng Phủ Ngọc Tường.
TRẦN THÙY MAICó lần anh Hoàng Phủ Ngọc Tường nói: tính chất của người quân tử là phải "văn chất bân bân". Văn là vẻ đẹp phát tiết ra bên ngoài, chất là sức mạnh tiềm tàng từ bên trong. Khi đọc lại những bài nghiên cứu về văn hóa – lịch sử của anh Tường, tôi lại nhớ đến ý nghĩ ấy. Nếu "văn" ở đây là nét tài hoa duyên dáng trong từng câu từng chữ đem lại cho người đọc sự hứng thú và rung cảm, thì "chất" chính là sức mạnh của vốn sống, vốn kiến thức rất quảng bác, làm giàu thêm rất nhiều cho sự hiểu biết của người đọc.
TRƯƠNG THỊ CÚCXuất thân từ một gia đình hoàng tộc, cử nhân Hán học, giỏi chữ Hán, thông thạo chữ Pháp, từng làm quan dưới thời Nam triều, nhưng Ưng Bình Thúc Giạ Thị là một nhân cách độc đáo.
HỮU VINH Chúng ta đã thưởng thức thơ, ca Huế, ca trù, hò, tuồng của thi ông Ưng Bình Thúc Giạ Thị, một nhà thơ lừng lẫy của miền sông Hương núi Ngự. Nhưng nói đến sự nghiệp văn chương của thi ông mà không nói đến thơ chữ Hán của thi ông là một điều thiếu sót lớn.
ĐỖ LAI THÚYQuang Dũng nói nhiều đến mây, đặc biệt là mây trời Sơn Tây, Tôi nhớ xứ Đoài mây trắng lắm! Mây là biểu tượng của tự do, của lãng du. Mây trắng là xứ sở của tiêu dao trường cửu. Chất mây lãng tử ở Quang Dũng, một phần do thổ ngơi xứ Đoài, phần kia do văn học lãng mạn.
CAO XUÂN HẠOĐọc bài Nỗi đau của tiếng Việt của Hữu Đạt (H.Đ) trong tuần báo Văn nghệ số 9 (2-3-2002), tôi kinh ngạc đến nỗi không còn hiểu tại sao lại có người thấy mình có thể ngồi viết ra một bài như thế. Tôi cố sức bới óc ra nghĩ cho ra người viết là ai, tại sao mà viết, và viết để làm gì. Rõ ràng đây không phải là một người hoàn toàn không biết gì về giới ngôn ngữ học Việt . Nhưng hầu hết những điều người ấy viết ra lại hoàn toàn ngược với sự thật.
MAI VĂN HOAN.Tôi biết Nguyễn Duy qua bài thơ “Tre Việt ” in trên báo Văn Nghệ. Từ đó, tôi luôn theo sát thơ anh. Mở trang báo mới thấy tên anh là tôi đọc đầu tiên. Với tôi, anh là một trong những người hiếm hoi giữ được độ bền của tài năng.
THỦY TRIỀU SUNG HUYỀN"Đây thôn Vĩ Dạ" là một bài thơ nổi tiếng của Hàn Mặc Tử đã từng có nhiều cách hiểu, cách tiếp cận khác nhau. Đành rằng ngôn ngữ thơ ca thường hàm súc, cô đọng, đa nghĩa do đó có thể có nhiều cách tiếp cận tác phẩm.
NGUYỄN DƯƠNG CÔNMỗi loại hình nghệ thuật ngôn từ đều có phong cách riêng trong cư xử với đối tượng mà nó phản ánh. Chính vì thế, đề tài tiểu thuyết trong khi mang những tính chất chung có của mọi thể loại văn học, nó đồng thời mang những tính chất riêng chỉ có của thể loại tiểu thuyết.
VĂN TÂMNhà thơ Bằng Việt (tên thật Nguyễn Việt Bằng) tuổi Tỵ (1941) quê "xứ Đoài mây trắng lắm", là một trong những thi sĩ bẩm sinh của thơ ca Việt hiện đại.
THANH THẢOHoàng Phủ Ngọc Tường có tập thơ "Người hái phù dung". Hoa phù dung sớm nở tối tàn, vẫn là loài hoa hiện hữu trong một ngày.
JOSH GREENFELDNgười Nhật vốn nổi tiếng vì tính bài ngoại của họ, thể hiện qua nghệ thuật cắm hoa và trà lễ. Tuy nhiên cũng từ rất lâu rồi nhiều nhà văn Nhật Bản vẫn quyết liệt phấn đấu mong tìm kiếm một chỗ đứng đáng kể trên các kệ sách của các thư viện nước ngoài. Họ làm thế không chỉ vì có nhiều tiền hơn, danh tiếng hơn mà còn vì một điều rằng những ai có tác phẩm được dịch nhiều ở nước ngoài thì sẽ được trân trọng, chờ đón ở trong nước!
BỬU NAM Kỷ niệm 200 năm ngày sinh của văn hào Victor Hugo (1802 - 2002)1. Người ta thường gọi Hugo là “con người đại dương”. Bởi sự vĩ đại của tư tưởng và sự mệnh mông của tình cảm của ông đối với nhân dân và nhân loại, bởi sự nghiệp đồ sộ của ông bao hàm mọi thể loại văn học và phi văn học; bởi sự đa dạng của những tài năng của ông in dấu ấn trong mọi lĩnh vực hơn hai thế kỷ qua trong nền văn học và văn hóa Pháp. Đến độ có nhà nghiên cứu cho rằng: Tất cả những vấn đề lớn của nhân loại đều hàm chứa trong các tác phẩm của Hugo như “tất cả được lồng vào tất cả”.
LẠI MAI HƯƠNGTiểu thuyết Những người khốn khổ có một số lượng nhân vật nữ rất đông đảo, nhưng mỗi nhân vật mang một sức sống riêng, một sinh lực riêng bởi nghệ thuật xây dựng các nhân vật này không hoàn toàn đồng nhất. Bài viết sẽ đi vào khảo sát một số nữ nhân vật tiêu biểu, bước đầu thử tìm hiểu thủ pháp xây dựng và cái nhìn của Hugo đối với loại nhân vật này.
PHẠM THỊ LYTôi viết những dòng này vì biết rằng giáo sư Cao Xuân Hạo sẽ không bao giờ trả lời bài viết của một tác giả như anh Phạm Quang Trung và những gì mà anh đã nêu ra trong bài "Thư ngỏ gửi Giáo sư Cao Xuân Hạo đăng trên Tạp chí Sông Hương số 155, tháng 1-2002.
LÝ HOÀI THU“Hoàng Hà nhớ, Hồng Hà thương” ( *) (nguyên bản: Hoàng Hà luyến, Hồng Hà tình) là tác phẩm hồi ký của bà Trần Kiếm Qua viết về lưỡng quốc tướng quân Nguyễn Sơn và đại gia đình Trung Việt của ông. Bằng sức cảm hoá của những dòng hồi ức chân thực, tác phẩm của phu nhân tướng quân đã thực sự gây xúc động mạnh mẽ trong lòng bạn đọc Việt .
NGUYỄN BÙI VỢICách mạng tháng Tám thành công, Phùng Quán mới 13 tuổi. Mồ côi cha từ năm 2 tuổi, cậu bé sinh ra ở làng Thuỷ Dương xứ Huế chỉ được học hết tiểu học, sáng đi học, chiều giúp mẹ chăn trâu, có năm đi ở chăn trâu cho một ông bác họ.
TRẦN HUYỀN SÂM Người tình là một cuốn tiểu thuyết hiện đại nổi tiếng của M.Duras. Tác phẩm đoạt giải Goncourt 1984, và đã từng gây một làn sóng xôn xao trong dư luận. Người tình được tái bản nhiều lần và được dịch ra nhiều thứ tiếng khác nhau trên thế giới. Tác phẩm cũng đã được chuyển thành kịch bản phim 1992 (qua đạo diễn Jean-Jacques Annaud).
ĐÀO NGỌC CHƯƠNGCho đến nay những ý kiến về phương diện thể loại của tác phẩm Chơi giữa mùa trăng của Hàn Mặc Tử vẫn chưa thống nhất. Theo Trần Thanh Mại, đó là bài văn xuôi: “Nay xin đơn cử ra đây một vài đoạn của một bài văn xuôi của Hàn để chứng tỏ thêm cái sức cảm thụ vô cùng mãnh liệt ở nơi nhà thơ lạ lùng ấy.