“Huế dịu dàng và sâu lắng lắm. Nhưng Huế cũng rất dữ dội...”

10:18 13/11/2009
LTS: Nhạc sĩ Trần Hoàn là người từng công tác nhiều năm, và có nhiều gắn bó với TTH. Nhân dịp ông vào Huế công tác, phóng viên Nguyễn Việt có cuộc trò chuyện với ông xung quanh những vấn đề về Huế và âm nhạc. Xin giới thiệu với bạn đọc nội dung cuộc trò chuyện này.

Nhạc sĩ Trần Hoàn - Ảnh: vtc.vn

Phóng viên (PV): Là người từng công tác nhiều năm ở TTH, ấn tượng sâu đậm nhất của ông về mảnh đất và con người ở đây?
Nhạc sĩ Trần Hoàn (NSTH): Ấn tượng sâu sắc nhất là yêu Huế. Huế dịu dàng và sâu lắng lắm. Nhưng Huế cũng rất dữ dội, kiên cường trong đấu tranh cách mạng. Nhưng cái để đi xa mấy cũng nhớ Huế là Huế dịu dàng, Huế sâu sắc. Anh Tố Hữu có lần nói với tôi:"Huế có cái gì đó, khi ở gần thì có thể hơi buồn một chút. Nhưng đã đi xa là nhớ. Nhớ vô cùng và nhớ da diết".

PV: Lâu lâu ông mới có dịp trở lại Huế. Mỗi lần như vậy, ông thấy Huế có thay đổi gì nhiều - nhất là những năm gần đây?
NSTH: Cảm nhận của tôi là Huế thay đổi nhiều. Có lẽ đậm nhất vẫn là những tầng văn hóa được khai thác từ đất Huế mà lên. Theo ánh sáng của NQTW 5, Huế đã làm khá tốt nhiều mặt trong việc bảo vệ và phát huy di sản văn hóa dân tộc. Đương nhiên, còn phải làm nhiều vấn đề nữa để có thể hoàn thiện hơn, đúng như tinh thần cơ bản của NQTW 5.

PV: Cụ thể là gì, thưa ông?
NSTH: Tôi nghĩ trước hết phải nghiên cứu cái định nghĩa cho đầy đủ ý của TW về di sản văn hóa. Đó là những giá trị truyền thống rất lớn. Nó không chỉ là những giá trị bác học mà cả giá trị dân gian. Nó không chỉ là những giá trị vật thể mà còn là giá trị phi vật thể rất quan trọng. Di sản văn hóa Huế không chỉ đánh dấu trong một thời đại nào, mà nó là một dòng chảy liên tục. Nó kế tục và phát triển nghìn đời nay - kể từ khi hình thành mảnh đất này. Phải chăng từ thời tiền sử, rồi sơ sử còn nhiều vấn đề cần tiếp tục khai thác để thấy cái dòng chảy ấy liền mạch như thế nào. Rồi các thời kì, giai đoạn lịch sử mang nhiều dấu ấn như Huyền Trân Công Chúa, các chúa Nguyễn, các vua Nguyễn... bên cạnh những hạn chế lịch sử, có nhiều điều hay về văn hóa. Đặc biệt, thời kì anh hùng dân tộc Nguyễn Huệ lên ngôi ở Phú Xuân đã có những tuyên ngôn hùng hồn để khơi dậy lòng yêu nước, đoàn kết nhân dân đánh đuổi quân Mãn Thanh... Nhưng điều tôi muốn nói nhiều hơn, có lẽ chúng ta đã làm nhưng chưa khai thác hết, đó là văn hóa Huế dưới thời đại Hồ Chí Minh. Như chúng ta đã biết, bản sắc văn hóa dân tộc (VHDT) chính là lòng yêu nước, sự tự tôn, tự trọng; Nó là tinh thần gắn kết của cá nhân với gia đình, làng xã, cộng đồng, Tổ quốc. Những cái đó đã thấm sâu, in đậm trong cuộc sống của nhân dân, trong thi, ca, nhạc, họa, trong kiến trúc, điêu khắc, cả trong ẩm thực và nhiều mặt khác nữa. Chúng ta mới làm được bước đầu. Còn phải tiếp tục đào sâu những tầng văn hóa rất dày của mảnh đất Phú Xuân này để tìm hiểu kĩ hơn nữa bản sắc đích thực của VHDT ở đây.

PV: Là một nhạc sĩ - tức là "dân" nghệ sĩ, lại là một nhà quản lý cấp cao, hai cái đó có mâu thuẫn gì ở trong ông?
NSTH: (Cười) Nếu nó mâu thuẫn thì tôi đã không như bây giờ. Anh Tố Hữu có lần nói vui "làm bí thư nhiều khi bí thơ", nhưng chính trong lúc làm bí thư anh ấy cũng có không ít thơ hay. Tôi muốn nói: Cái chất sáng tác làm cho anh quản lý có tâm hồn, không bị xơ cứng. Quản lý, nói cho cùng là làm công tác về con người, phải có tình, có nghĩa. Chính cái chất nghệ sĩ đã giúp cho việc quản lý mềm dịu hơn, sâu sắc hơn, uyển chuyển hơn. Ngược lại, người quản lý với những hiểu biết kĩ càng về chính trị, đường lối, chủ trương đã giúp cho người nghệ sĩ có cái nhìn tỉnh táo, đầy đủ hơn. Nếu ta biết kết hợp tốt hai cái đó, nó sẽ giúp cho công việc của ta tốt hơn. Thực tế, đã có nhiều người kết hợp tốt hai cái đó.

PV: Với hai tư cách: ông nhạc sĩ và ông phó ban TT-VH TW, khi làm việc với báo giới, ông thích làm việc với tư cách nào hơn?
NSTH: (Cười) Rất khó trả lời. Nhưng tôi rất muốn hôm nay, cái ông phó ban TT-VH TW vắng mặt, để hiện diện ông nhạc sĩ thì hay hơn. Tôi nói thêm điều này: Tôi cũng có làm báo, và tôi rất thích báo chí, bởi báo chí là một phương tiện rất lớn của văn hóa. Tôi muốn tiếp cận với báo chí như người của báo chí nhưng thiên nhiều hơn về văn nghệ.

PV: Dù vậy, nhưng khi phải tiếp xúc với báo chí, ông có ngại không? Nếu có, đó là điều gì?
NSTH: Tôi tiếp xúc với báo chí cũng nhiều, tôi thấy cũng không có gì là ngại cả. Nếu họ hỏi thật thà, thẳng thắn thì tôi cũng trả lời thật thà, thẳng thắn. Điều gì mình biết thì mình nói. Điều gì mình chưa rõ thì nói tôi chưa rõ, và sẽ trả lời sau. Cũng có vấn đề mình phải nói: "Theo tôi nghĩ, điều đó không hay, xin gợi ý để các bạn suy nghĩ", hoặc "bạn nên tránh điều đó..." Đa số người làm báo, họ biết trách nhiệm của họ. Họ cũng có quyền giữ ý kiến của họ. Khi ấy, ta sẽ xử lý việc đó thông qua thảo luận, tranh luận, trao đổi...

PV: Xin trở lại với tư cách nhạc sĩ của ông. Khi sáng tác, ông thường nghĩ gì?
NSTH: Hồi đầu, trong kháng chiến, khi viết nhạc tôi có một suy nghĩ thôi thúc rất lớn là mình cần phải làm thế nào để động viên được quần chúng đi kháng chiến - tôi tham gia kháng chiến từ CMT8. Bấy giờ, nhân dân ham thích và say mê văn nghệ lắm. Rõ ràng, tác dụng của văn nghệ là rất lớn. Tôi nghĩ, nó là phương tiện giúp mình truyền đạt chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, và trước hết là tập trung trí tuệ và sức lực để giữ cho được độc lập dân tộc, thực hiện cho được lời Bác Hồ dạy. Nhưng càng ngày tôi thấy quần chúng họ hiểu văn nghệ một cách khác hơn. Hình như nó có một nhu cầu riêng của nó, không chỉ đơn thuần để làm nhiệm vụ chính trị, để cổ động, mà nó còn đem đến cho người ta cái đẹp. Cái đẹp tôi nói ở đây là cái đẹp chân thật, cái đẹp đích thực, cái đẹp hướng thiện - mà ta vẫn nói gọn là Chân - Thiện - Mĩ. Đó là điều để cho tôi rất nhiều suy nghĩ.

PV: Ông nghĩ gì về mảng sáng tác ca khúc của giới sáng tác trẻ trong những năm gần đây?
NSTH: Lớp trẻ ngày nay có nhiều sáng tác. Càng ngày họ càng có nhiều tìm tòi. Một điều hay là lớp trẻ không muốn đi theo lối mòn cũ. Họ rất cố gắng tìm cái mới. Nhưng cái mới như thế nào là hay thì họ cũng đang trong giai đoạn tìm tòi, thử nghiệm. Có người thì đang ở bước đầu, nhưng cũng có người đã có được thành đạt. Tuy nhiên, có lẽ còn sớm dể nói đến người này, người kia. Vấn đề là mới thế nào mà vẫn giữ được cái bản sắc dân tộc của mình, đó là điều rất quan trọng. Tiên tiến nhưng đậm đà bản sắc dân tộc là ở chỗ đó.

PV: Theo ông, thế nào là một ca khúc hay?
NSTH: Một ca khúc hay, chắc chắn được nhiều người yêu thích, nhưng một ca khúc được nhiều người yêu thích chưa chắc đã là một ca khúc hay. Cũng cần nói là hay với ai? Có nhiều đối tượng lắm. Thí dụ: Nhiều bài của tôi được nhiều cụ yêu thích lắm - nhất là những người đã đi qua chiến tranh. Nhưng với các em trẻ thì hình như chưa thấm lắm. Ngược lại, có những bài hát chưa đề cập được vấn đề gì sâu cả thì nhiều em trẻ có vẻ rất thích. Thậm chí có nhiều bài lẩn thẩn như con gái bây giờ thì như thế đấy, nói có là không, nói không là co... vậy mà nhiều em hát hồn nhiên và có vẻ rất thích thú. Gần đây trên VTV còn truyền thêm cả đàn ông là như  thế đấy, động đâu lang thang đấy... Tôi không chấp nhận được. Không phải tôi xơ cứng đâu. Tôi chỉ có thể chấp nhận nếu dùng nó trong sinh hoạt đùa vui, có tính nội bộ. Còn đưa lên báo, đài, phổ biến rộng rãi thì phải thận trọng, phải suy nghĩ. Tôi chấp nhận những bài hài hước, châm biếm để đem đến điều thiện, chứ không chấp nhận cái giải trí đơn thuần, không có mục đích.

PV: Ông nghĩ gì về tình ca? Trong lúc chúng ta đang tập trung cho sự nghiệp CNH, HĐH, theo ông tình ca có vị thế như thế nào?
NSTH: Làm nhạc là làm tình ca. Không có cái âm nhạc nào chỉ có lý trí không thôi. Nhưng phải hiểu tình ca như thế nào cho đúng. Có người hiểu tình ca như chỉ dành riêng cho phạm trù lứa đôi, tình yêu lứa đôi. Tôi không nghĩ như thế. Tình ca là những khúc ca về tình người. Cái tình ấy lớn lắm. Nó bao gồm nhiều: tình cha con, mẹ con, tình đồng chí đồng đội, tình đồng môn đồng nghiệp, tình đồng hương, đồng loại, tình làng nghĩa xóm, cao hơn nữa là tình yêu quê hương, yêu Tổ quốc, yêu nhân dân, yêu lý tưởng cách mạng... Chúng ta từng biết những bài thơ, những bản tình ca như "Tình đồng chí" (Chính Hữu - Minh Quốc), "Tình ca" (Hoàng Việt), "Việt Nam quê hương tôi" (Đỗ Nhuận), "Quê hương" (Giang Nam) v.v... Những bài đó có tình không? Tình lắm. Yêu thương tha thiết lắm. Trong đó có tình yêu lứa đôi không? Có. Nhưng nó nằm trong một tình yêu lớn hơn, cao đẹp hơn. Nói thế không phải tôi khai trừ loại bài viết chỉ riêng tình yêu lứa đôi. Đó cũng là một đề tài phải làm bởi nó cũng có cái đẹp. Nhưng tôi không chấp nhận sự hiểu biết về tình ca là chỉ có tình yêu lứa đôi không thôi. Còn có ý kiến luận rằng cái hay nhất bây giờ là nói về tình cảm lứa đôi thì tôi không chấp nhận. Tôi cho rằng đó là sự thiếu hiểu biết, thiếu vốn sống, thiếu tài năng trong việc diễn đạt những cái hay, cái đẹp của cuộc sống chứ không phải tình ca chỉ là riêng của lứa đôi. Cho nên trên báo chí, truyền hình, phát thanh, ta cũng phải hiểu cái nghĩa của tình ca cho rộng rãi, đúng đắn hơn; to lớn và sâu sắc hơn của tình cảm.

PV: Câu hỏi cuối cùng: Với TTH, ông đã có khá nhiều bài hát. Theo ông, đã là bài hát hay nhất của ông chưa? Nếu chưa, ông có ý định sẽ viết bài hay hơn cho TTH không?
NSTH: (Cười) Sẽ là tự giết mình nếu cho rằng mình đã viết được bài hát hay nhất. Không bao giờ có chuyện đó. Cứ mài bút đi, tiếp tục viết nữa đi. Nhưng quả thật,  rất khó khi mình muốn vượt chính mình. Hiện nay tôi đã và đang viết nhiều bài về Huế đấy. Như bài phổ thơ của Thúy Bắc mà Hương Mơ mới hát chẳng hạn. Nhưng viết nhiều, chưa chắc đã đứng được mấy. Vì vậy phải tìm tòi, phải nghĩ ra một cách viết về Huế sao cho mới mà hay. Tôi xin nói thật là đang cố gắng tìm tòi để viết nhiều nữa về Huế. Không biết có đứng được không, nhưng tôi sẽ viết với tất cả tâm huyết và sức lực của mình.

PV: Chân thành cảm ơn ông. Chúc ông có thêm nhiều bài hát hay, không chỉ cho TTH mà cho cả cuộc đời, cho cả mọi người.

NGUYỄN VIỆT thực hiện
(127/09-99)





 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • CAO CHÍ HẢI  

    Nghệ thuật sân khấu, âm nhạc vô cùng phong phú và đặc sắc, nhiều lễ hội cổ truyền và thuần phong mỹ tục tiêu biểu của người Việt được lưu truyền đến Nghệ thuật múa của dân tộc Việt xuất hiện cách đây khoảng 4000 năm.

  • MAI VĂN HOAN

    Một số bài viết đề cập đến nơi an táng Đại thi hào Nguyễn Du gần đây chủ yếu dựa vào Gia phả họ Nguyễn Tiên Điền. Gia phả ghi: “Năm Canh Thìn (1820) Gia Long qua đời, Minh Mạng nối ngôi.

  • TRẦN ĐÌNH BA

    1. Lược sử, ý nghĩa lệ cày ruộng tịch điền
    Trước hết, chúng ta phải khẳng định một sự thật hiển nhiên rằng, Việt Nam là quốc gia nông nghiệp lúa nước, hay nói như lời nhà Nho Phan Kế Bính (1875 - 1921) có đề cập trong Việt Nam phong tục, thì đó là một “Nông quốc”1, quốc gia lấy nông nghiệp làm gốc.

  • CAO THỊ HOÀNG  

    1.
    Mùi bùn non từ cửa sông theo gió chướng lộng về, tôi ngây ngây mùi nhớ! Cái mùi nhớ đôi lúc bâng khuâng và cũng lắm khi, rịt chặt tâm hồn kẻ hậu sinh với tiền nhân thuở trước. Tôi quay lại Huế.

  • ĐỖ MINH ĐIỀN

    Trong số những đối tượng được thờ cúng và được xem là phúc thần của nhiều làng xã vùng Huế, thì Khai canh, Khai khẩn là một thần hiệu ra đời khá muộn. 

  • VĨNH AN

    Sự nhẹ nhàng của tính cách sẽ khiến doanh nghiệp (DN) Huế dễ gần gũi với khách hàng hơn; sự chu đáo trong cuộc sống khiến khách hàng có cảm giác được DN Huế quan tâm hơn; lòng yêu thiên nhiên và nếp sống hòa hợp với thiên nhiên sẽ khiến khách hàng yên tâm về sự phát triển xanh và bền vững hơn của DN Huế… Và đó chính là lợi thế của DN Huế, là đặc tính văn hóa nổi bật của DN Huế.

  • TRUNG SƠN

    I - Lời nhắc nhở của nhà văn Nguyễn Tuân.
    Nhà Văn Nguyễn Tuân là người cẩn thận và độc đáo trong việc dùng chữ nghĩa. Vậy nên nhắc đến "cụ", trước hết phải có đôi lời về cái đầu bài.

  • TRẦN NGUYỄN KHÁNH PHONG

    Trong quan niệm của người Việt xưa, chó là con vật trung thành và mang lại nhiều may mắn. Tục thờ chó được biểu hiện dưới nhiều hình thức khác nhau. Có nơi thờ chó đá trước cổng như một linh vật với ý nghĩa cầu phúc, trừ tà hoặc đặt chó đá trên bệ thờ và coi như một bậc thần linh.

  • NGUYÊN HƯƠNG

    Từ trung tâm thành phố, chạy thêm 25km về hướng Đông Nam sẽ gặp xã Phú Hải (thuộc huyện Phú Vang) gồm 4 ngôi làng tên Cự Lại: Cự Lại Đông, Cự Lại Bắc, Cự Lại Trung và Cự Lại Nam (dân làng thường gọi chung là Cự Lại). Những ngôi làng này nằm kề sát nhau, có chiều dài khoảng 2km, trải dọc ven biển và phá Tam Giang.

  • TRƯỜNG AN     

    “Nỗi niềm chi rứa Huế ơi
    Mà mưa trắng đất trắng trời…”

  • PHƯỚC VĨNH

    Du lịch dịch vụ đang được xác định là mũi tàu xanh của con thuyền rẽ sóng ra biển lớn của Thừa Thiên Huế. Làm sao để mỗi công dân đang sống ở miền sông Hương núi Ngự, ngay từ nhỏ đã được khơi gợi ý thức về việc tạo nên sản phẩm du lịch và triển khai ý tưởng đó, với một ý thức văn hóa Huế đã ăn sâu trong tiềm thức… 

  • VÕ VINH QUANG

    Tộc Nguyễn Cửu và những dấu ấn quan trọng trong lịch sử văn hóa xứ Thần Kinh

  • NGUYỄN THƯỢNG HIỀN

    Sau đêm binh biến Thất thủ Kinh đô, kinh thành Huế ngập chìm trong máu lửa, tiếng khóc than. Những dãy nhà gỗ, mái tranh chạy dọc hai bên đường Đông Ba đến giáp hoàng cung ngập chìm trong biển lửa. Bọn Tây tay súng, lưỡi lê hàng ngang tha hồ tàn sát quân dân ta.

  • NGUYỄN CAO THÁI

    “Gió đưa cành trúc la đà
    Tiếng chuông Thiên Mụ, canh gà Thọ Xương”

  • TRIỀU NGUYÊN

    1. Đặt vấn đề
    Có lẽ không ít lần chúng ta đã nghe nói đến hai dạng thơ Song điệpSong thanh điệp vận của thể thơ Thất ngôn luật Đường, trên thi đàn Việt. Vậy chúng là những kiểu, dạng thơ như thế nào, và quan hệ giữa chúng ra sao?

  • HOÀI VŨ

    * Vài nét về việc du nhập điện ảnh vào Huế
    Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 3 (129) năm 2016 có đăng bài “Vài nét về lịch sử nhiếp ảnh và điện ảnh ở Thừa Thiên Huế” của nhà nghiên cứu Nguyễn Xuân Hoa cung cấp nhiều tư liệu rất quý.

  • THẢO QUỲNH

    Quyết Chiến là tờ nhật báo đầu tiên của cách mạng xuất bản ở Huế sau Cách mạng Tháng Tám, là cơ quan ủng hộ chính quyền nhân dân cách mạng, tiếng nói của Đảng bộ Việt Minh Thuận Hóa và của tỉnh Nguyễn Tri Phương (bí danh của tỉnh Thừa Thiên). Mới đây, đọc lại một số báo Quyết Chiến, chúng tôi tìm thấy một số thông tin liên quan đến Ngày Khỏe vì nước đầu tiên của Huế vào giữa năm 1946. Xin trích dẫn lại để bạn đọc tham khảo:

  • Thời gian qua, tỉnh Thừa Thiên Huế đã đẩy mạnh các chương trình trọng điểm để tạo động lực thúc đẩy phát triển nhanh mọi mặt kinh tế - xã hội. Mỗi chương trình trong chuỗi các chương trình lớn, như là một căn nền tạo lực nâng cho tương lai.

  • Kỉ niệm ngày Báo chí Cách mạng Việt Nam

    THANH BIÊN (*)

  • NGUYỄN THÀNH

    Kỷ niệm 60 năm khoa Ngữ Văn Trường Đại học Khoa học - Đại học Huế (1957 - 2017)