“Đường thiền sen nở” cuốn sách quý về một nữ tu danh tiếng

08:17 31/12/2009
NGUYỄN CƯƠNGSư Bà Thích Nữ Diệu Không (tục danh Hồ Thị Hạnh) sinh năm 1905 viên tịch năm 1997 hưởng thọ 93 tuổi. Lúc sinh thời Sư Bà trụ trì tại Chùa Hồng Ân, một ngôi chùa nữ tu nổi tiếng ở TP Huế, đã một thời là trung tâm Phật giáo ở miền Nam.

Trong giới tu hành ở miền Nam không ai không biết đến danh và công lao đóng góp cho đạo, cho đời của Sư Bà. Sư Bà Diệu Không là người đã xây dựng và sáng lập ni tự Hồng Ân vào khoảng năm 1949 và có nhiều hoạt động xã hội khác.

Quyển “Đường thiền sen nở” do hai tác giả Lê Ngân và Hồ Đắc Hoài biên soạn do Nxb Lao Động và Trung tâm văn hoá ngôn ngữ Đông Tây ấn hành 6/2009. Quyển sách gồm 3 phần: Gia tộc và thân thế, hồi ký của Sư Bà Thích Nữ Diệu Không và Diệu Không thi lục.

Sư Bà Diệu Không là con của cụ Hồ Đắc Trung (1861 - 1941) quê ở làng An Truyền (Phú Vang - Thừa Thiên Huế). Cụ Hồ Đắc Trung nhận chức thượng thư Bộ Học kiêm Bộ Hộ dưới triều vua Duy Tân, uy quyền rất lớn nhưng cụ là người tôn trọng nghĩa khí, tính thanh liêm ngay thẳng, xuất thân từ Nho học, nhưng sớm có tư tưởng cách tân. Cụ có 10 người con (6 trai, 4 gái). Những người con của cụ sau này đã có nhiều người có công đóng góp cho đất nước như Tiến sĩ luật khoa Hồ Đắc Điềm nguyên phó Chủ tịch UBHC TP Hà Nội, Phó Chủ tịch UBMTTQ TP Hà Nội; Giáo sư Bác sĩ Hồ Đắc Di nguyên Hiệu trưởng đầu tiên Trường Đại học Y Khoa Hà Nội; kỹ sư Hồ Đắc Liên nguyên Tổng cục trưởng Tổng cục địa chất; tiến sĩ dược khoa Hồ Đắc Ân, Sư Bà Diệu Không (con gái út) nổi tiếng trong giới Phật giáo.

Trong phần gia tộc còn giới thiệu nhiều chi tiết “những dấu ấn lịch sử” liên quan giữa cụ Hồ Đắc Trung và gia đình với vua Duy Tân, với cụ pho bảng Nguyễn Sinh Huy (Nguyễn Sinh Sắc). Phần này cũng đã nêu khá rõ tiểu sử của Sư Bà những đóng góp cho đạo, cho đời gắn bó với phong trào Phật giáo miền Nam những năm 1960 đấu tranh chống Mỹ - Diệm và những năm tiếp theo cho đến ngày giải phóng hoàn toàn miền Nam. Sau năm 1975 Sư Bà Diệu Không với cương vị đứng đầu giới nữ tu miền Nam đã góp phần tích cực vào quá trình thống nhất tổ chức Phật giáo toàn quốc gắn với sự phát triển cua cách mạng Việt Nam trong giai đoạn cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.

Phần hồi ký của Sư Bà là phần chính cuốn sách. Phần này được ghi chép lại vào năm 1992, tác giả biên soạn không thay đổi thêm bớt, sửa chữa chỉ bổ sung phụ đề, chú thích và ảnh minh họa. Trong phần hồi ký người đọc bị cuốn hút với lối kể chuyện giản dị, dễ hiểu theo dòng lịch sử đôi khi pha chút dí dỏm về cuộc đời của mình xuất thân trong một gia đình đại thần triều Nguyễn Hồ Đắc Trung cho đến khi xuất gia theo đạo Phật. Trong phần hồi ký, chúng ta lại bắt gặp những gương mặt nữ tiêu biểu ở Huế hồi đầu thế kỷ trước như nữ sử Đạm Phương, bà Trần Như Mân, bà vợ Phan Bội Châu…

Các phong trào Duy Tân, Đông Du đều được nhắc đến. Có một số chi tiết thuộc về “thâm cung bí sử”, chuyện “hậu cung” dưới triều Duy Tân, Khải Định, Bảo Đại với Bà Từ Cung, Nam Phương hoàng hậu đều được kể lại khách quan.

Phần Diệu Không thi lục đã giới thiệu trên 110 bài thơ trong sự nghiệp thơ của Sư Bà từ thập niên 20 cho đến cuối những năm 80 của thế kỷ trước và khá nhiều bài chưa tìm được thời gian sáng tác. Những bài thơ này đã được đăng trên một số tạp chí của Phật giáo ở miền Nam trước đây và một số bài do các đệ tử nhớ ghi lại. Năm 2007, Nxb Thuận Hóa (Huế) cũng đã xuất bản quyển “Diệu Không thi tập”.

N.C

(250/12-09)




 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • HỒNG DIỆUTrương Mỹ Dung đời Đường (Trung Quốc) có một bài thơ tình yêu không đề, được nhiều nhà thơ Việt Nam chú ý.

  • NGUYỄN KHOA BỘI LANMột hôm chú Văn tôi (Hải Triều Nguyễn Khoa Văn) đọc cho cả nhà nghe một bài thơ mà không nói của ai.

  • NGUYỄN QUANG HÀTôi nhớ sau thời gian luyện tập miệt mài, chuẩn bị lên đường chi viện cho miền Nam, trong lúc đang nơm nớp đoán già đoán non, không biết mình sẽ vào Tây Nguyên hay đi Nam Bộ thì đại đội trưởng đi họp về báo tin vui rằng chúng tôi được tăng viện cho chiến trường Bác Đô.

  • LÊ HUỲNH LÂM(Đọc tập truyện ngắn “Thõng tay vào chợ” của Bạch Lê Quang, NXB Thuận Hóa, 11/2009)

  • LÊ VŨ(Đọc tập thơ Nháp của Ngọc Tuyết - NXB Thanh niên 2009)

  • NGÔ MINHÐọc lại Chiếu Dời đô, tôi bỗng giật mình trước sự vĩ đại của một quyết sách. Từng câu từng chữ trong áng văn chương bất hủ này đều thể hiện thái độ vừa quyết đoán dứt khoát với một lý lẽ vững chắc, vừa là một lời kêu gọi sự đồng thuận của triều thần với lời lẽ rất khoan hòa, mềm mỏng.

  • LÊ HUỲNH LÂMThơ không thể tách rời đời sống con người. Điều đó đã được thời gian minh chứng. Từ lời hát ru của mẹ, những giọng hò trên miền sông nước,… đã đánh thức tình yêu thương trong mỗi chúng ta.

  • KHÁNH PHƯƠNGNgay từ thuở cùng Trần Mai Châu, Vũ Hoàng Địch, Vũ Hoàng Chương viết tuyên ngôn Tượng trưng, Trần Dần đã mặc nhiên khảng khái công bố quan niệm, thơ bỏ qua những biểu hiện đơn nghĩa của sự vật, sự kiện, đời sống, mà muốn dung hợp tất cả biểu hiện hiện thực trong cõi tương hợp của cảm giác, biến nó thành không gian rộng lớn tiếp biến kỳ ảo của những biểu tượng tiềm thức. Như vậy cũng có nghĩa, nhà thơ không được quyền sao chép ngay cả những cảm xúc dễ dãi của bản thân.

  • HỒNG NHU    (Đọc tập “Chuyện Huế” của Hồ Đăng Thanh Ngọc - NXB Thuận Hóa 2008)

  • NGUYỄN ĐÔNG NHẬTĐọc xong tập sách do họa sĩ Phan Ngọc Minh đưa mượn vào đầu tháng 6.2009(*), chợt nghĩ: Hẳn, đã và sẽ còn có nhiều bài viết về tác phẩm này.

  • NGUYỄN HỮU QUÝ         (Mấy cảm nhận khi đọc Chết như thế nào của Nguyên Tường - NXB Thuận Hóa, 2009) Tôi mượn thuật ngữ chuyên ngành y học (Chăm sóc làm dịu=Palliative Care) để đặt tít cho bài viết của mình bởi Phạm Nguyên Tường là một bác sĩ điều trị bệnh ung thư. Tuy rằng, nhiều người biết đến cái tên Phạm Nguyên Tường với tư cách là nhà thơ trẻ, Chủ tịch Hội Nhà văn Thừa Thiên Huế hơn là một Phạm Nguyên Tường đang bảo vệ luận án tiến sĩ y khoa.

  • LÊ THỊ HƯỜNGTìm trong trang viết là tập tiểu luận - phê bình thứ 3 của Hồ Thế Hà. Sau những ngày tháng miệt mài “Thức cùng trang văn” (viết chung với Lê Xuân Việt, được giải thưởng Cố đô 1993 - 1997), Hồ Thế Hà lại cần mẫn “tìm trong trang viết” như một trăn trở đầy trách nhiệm với nghề.

  • MAI VĂN HOANNguyễn Công Trứ từng làm tham tụng bộ lại, Thị lang bộ Hình, Thượng thư bộ Binh... Đương thời ông đã nổi tiếng là một vị tướng tài ba, một nhà Doanh điền kiệt xuất. Thế nhưng khi nói về mình ông chỉ tự hào có hai điều: Thứ nhất không ai "ngất ngưỡng" bằng ông; thứ hai không ai "đa tình" như ông. Nguyễn Công Trứ "ngất ngưỡng" đến mức "bụt cũng phải nực cười" vì đi vào chùa vẫn mang theo các cô đào.

  • SICOLE MOZETBà Nicole Mozet, giáo sư trường Paris VII, chuyên gia về Balzac và là người điều hành chính của các hội thảo về Balzac đã làm một loạt bài nói chuyện ở trường Đại học ngoại ngữ Hà Nội, trường Đại học sư phạm Hà Nội, Nhà xuất bản thế giới... Chúng tôi trích dịch một đoạn ngắn trong bản thảo một bài nói chuyện rất hay của bà. Lúc nói bà đã phát triển những ý sau đây dưới đầu đề: Thời gian và tiền bạc trong Eugénie Grandet, và đã gợi cho người nghe nhiều suy nghĩ về tác phẩm của Batzac, cả về một số tác phẩm của thế kỉ XX.

  • CAO HUY HÙNGLịch sử vốn có những ngẫu nhiên và những điều thần tình mà nhiều người trong chúng ta chưa hiểu rõ. Tỉ như: Thế giới có 2 bản Tuyên ngôn độc lập, đều có câu mở đầu giống nhau. Ngày tuyên bố tuyên ngôn trở thành ngày quốc khánh. Hai người soạn thảo Tuyên ngôn đều trở thành lãnh tụ của hai quốc gia và cả hai đều qua đời đúng vào ngày quốc khánh...

  • NGUYỄN VĂN HOA1. Tôi là người Kinh Bắc, nên khi cầm cuốn sách Văn chương cảm và luận (*) của Nguyễn Trọng Tạo là liền nhớ ngay tới bài hát Làng quan họ quê tôi của anh mà lời ca phỏng theo bài thơ Làng quan họ của nhà thơ Nguyễn Phan Hách.

  • TRẦN HUYỀN SÂMSau mười năm, kể từ khi “Cái trống thiếc” ngỗ ngược của chú lùn Oska vang lên trên đống gạch đổ nát của thế chiến II, Herta Munller đã tiếp nối Gunter Gras và vinh danh cho dân tộc Đức bởi giải Nobel 2009.

  • NGUYỄN ĐÌNH CHÍNH       (nhân Đọc "Từ những bờ hoa gió thổi về")Ông Trần Nhật Thu sinh năm 1944 ở Quảng Bình. Ông  lớn lên, làm thơ, đoạt giải thi ca cũng từ miền đất gió cát này. Năm 1978 ông rời Quảng Bình như một kẻ chạy trốn quê hương. Nhưng hơn hai chục năm nay miền quê xứ cát vẫn âm thầm đeo bám thơ ông. Qua đó lộ cảm tâm trạng ông vẫn đau đáu miền gió cát này.

  • Nhà văn Tô Nhuận Vỹ tên thật là Tô Thế Quảng, sinh ngày 25 tháng 8 năm 1941, quê ở Vinh Xuân, Phú Vang, Thừa Thiên Huế. Anh đã kinh qua các công việc: dạy học, phóng viên, biên tập viên… Anh từng giữ các chức vụ: Tổng thư ký và Chủ tịch Hội Văn nghệ Bình Trị Thiên, Tổng biên tập tạp chí Sông Hương, Giám đốc Sở Ngoại vụ, đại biểu HĐND tỉnh Thừa Thiên Huế, Uỷ viên Ban kiểm tra, Uỷ viên Hội đồng văn xuôi và Ban đối ngoại Hội Nhà văn Việt Nam.

  • ĐÔNG LAThế là sự ồn ào qua rồi. Diễn đàn đã đóng cửa. Nhưng lẽ nào việc thẩm định văn chương chỉ râm ran một hồi như thế, rồi cái nhùng nhằng còn nguyên nhùng nhằng, sự mâu thuẫn còn nguyên mâu thuẫn, và chuyện hay dở đến đâu cũng vẫn cứ mãi lửng lơ!