Sống ở nhiều nơi, trải nghiệm nhiều nền văn hóa, các trang viết của nhà văn Pháp gốc Việt Thuận không chỉ dừng lại ở vấn đề quê hương hay hiện thực nơi đang sống.
Nhà văn Thuận (Đoàn Ánh Thuận) sinh ở Hà Nội, có một thời gian theo gia đình sống ở Sài Gòn, rồi quay lại Hà Nội, học đại học tại Nga, học cao học tại Pháp. Hiện chị định cư tại Pháp.
Một đôi mắt khác
- Sáng tác bằng tiếng Việt nhưng nhà văn Thuận lại được nhận xét là người sống kỹ với nền hóa khác (Pháp)?
- Tôi sống ở Pháp, một nền văn hóa hoàn toàn khác với Việt Nam nhưng không có gì cản trở, có thể do tôi học tiếng Pháp rồi ra nước ngoài từ khi còn rất nhỏ.
- Theo chị, có khó khăn không khi một người viết mang nhiều nền văn hóa?
- Nói một cách hài hước, sẽ chẳng mất gì nếu cùng lúc tôi có thể ăn pho mát như mắm tôm, hay tôi vừa có độc giả Pháp vừa có độc giả Việt. Nếu có mất là tôi không được sống trực tiếp trong hiện thực ở Việt Nam. Thế nhưng tôi có thể nhìn Việt Nam từ một khoảng cách xa, có thể nhìn được những cái mà người sống ở đó không nhận ra. Tôi hy vọng như vậy.
- Có phải đó là lý do chị hay chọn đề tài có độ lùi lịch sử nhất định thay vì cập nhật đời sống hiện nay?
- Con người chỉ sống một cuộc đời. Dùng trải nghiệm ấy để viết cùng lắm chỉ được một tác phẩm thôi. Trải nghiệm của nhà văn có thể là chứng kiến, suy ngẫm… từ đó, hiểu về người khác. Có bao nhiêu người lính đã đi qua cuộc chiến nhưng không phải người lính nào cũng viết lên được chiến tranh. Tương đương việc tôi ở xa Việt Nam và có con mắt nhìn khác về Việt Nam, tương tự tôi là người Việt nhìn nước Pháp khác với tác giả Pháp. Nước Pháp trong tôi khác với những gì trên tiểu thuyết, trên phim. Các bạn sẽ không chỉ thấy tháp Eiffel lấp lánh ánh đèn, Bảo tàng Lourve sừng sững… Tôi muốn để mọi người nhìn nước Pháp qua con mắt một người di dân như tôi.
- Bởi vậy, độc giả đã không khỏi sững sờ khi đọc “Chinatown” (Phố Tàu), hoặc “Paris 11 tháng 8”…?
- Độc giả Pháp đọc Chinatown mới ồ hóa ra người di dân khó khăn như nào để có giấy tờ ở lại, phải đương đầu với nền hành chính quan liêu ra sao. Hoặc ở Paris 11 tháng 8, nói về trận nắng nóng làm mấy chục nghìn người cao tuổi qua đời trong 1 tuần, là sự kiện mà chính người Pháp cũng không muốn nhắc đến.
- Khi mang trong mình nhiều nền văn hóa, chị có điều kiện viết về di dân. Điều chị tâm huyết ở đề tài này là gì?
- Đó là đề tài tôi luôn muốn đi sâu hơn. Trong văn học Pháp, đó là đề tài rất ít được khai thác. Người Pháp có nhiều thuộc địa nhưng lại ít viết về di dân. Đã đến lúc người Pháp hiểu là di dân quan trọng như thế nào trong xã hội Pháp. Trong tác phẩm của tôi giờ đây không chỉ viết về vấn đề di dân của người Việt mà còn có sự xuất hiện của người Mỹ Latin, người Hoa, người Đông Âu…
![]() Tác phẩm của Thuận được xuất bản tiếng Việt và tiếng Pháp |
“Tôi không thể bỏ độc giả Việt Nam”
- Đề tài quyết định như thế nào đến cấu trúc truyện của chị?
- Tôi chú ý hình thức hơn nội dung. Nội dung là cái chiêm nghiệm, quan sát hàng ngày và đi vào bộ nhớ, khi tìm ra một hình thức tiểu thuyết thì tự nhiên nó sẽ được sắp đặt theo cách của nó. Tiểu thuyết đầu tay của tôi là Made in Việt Nam (chưa được xuất bản ở Việt Nam) dày 200 trang, không có một dấu xuống dòng nào. Chinatown cũng chỉ được dừng mạch hai lần. Paris 11 tháng 8 không chỉ có hư cấu mà còn có phi hư cấu ở những trích đoạn báo chí nói về trận nắng nóng năm 2003. T mất tích thì nhân vật chính “mất tích” ngay từ đầu, tất cả những gì tiếp theo chỉ là người ta tưởng tượng. Cấu trúc của Thang máy Sài Gòn là làm sao có độ năng động như nhịp dịch chuyển của thang máy, như nhịp sống Sài Gòn. 4 ngày là hết tháng Tư ngập tràn số 4…
- Nơi nào đưa chị đến với tình yêu văn học, Pháp hay Việt Nam?
- Không địa điểm nào có thể mang tình yêu văn học đến với tôi. Tình yêu văn học đối với tôi chính là từ các nhà văn lớn. Đọc tác phẩm hay, tôi sôi sục ngồi vào bàn nhưng không phải để viết như họ, mà họ mang cho tôi niềm tin vào việc viết, một công việc nhọc nhằn, gian khổ. Nhưng địa điểm cho cảm hứng viết thì có. Như Sài Gòn, với tôi đó là mảnh đất gần gũi vừa phải, xa lạ cũng vừa phải và có nhiều dấu ấn lịch sử. Ở bất cứ ngôi nhà nào, tôi đều tưởng tượng trước năm 1975 có ai đó đang sống ở đấy và bây giờ họ ở đâu, lý do nào họ rời mảnh đất này… Tương tự khi đến Berlin (Đức), tôi có cảm giác một viên gạch cũng nói lên bao điều, bức tường Berlin luôn gợi tôi nhớ đến Việt Nam, trong 20 năm chiến tranh bị chia đôi ở sông Bến Hải…
- Càng viết, càng mở rộng đối tượng độc giả thì căn cước Việt Nam ở chị mờ dần hay rõ nét?
- Thực ra tôi cũng không biết văn hóa trong mình có chia đều một nửa là Việt Nam, một nửa là Pháp không. Tôi viết hoàn toàn tự nhiên. Khi viết tôi không còn nghĩ đến độc giả nữa.
- Khi viết chị không nghĩ đến độc giả?
- Tức là mình không viết để vừa lòng đám đông. Hầu như các nhà văn đều biết cách làm vừa lòng đám đông. Cứ viết một câu chuyện bi thảm, nhân vật đẹp, tình yêu say đắm… chắc chắn bán chạy. Nhưng người viết thực sự sẽ từ chối cách dễ dàng đó. Nói như cụ Trần Dần: “Tôi đánh nhau để có được độc giả”, theo nghĩa phải tạo được độc giả cho tôi, tin vào những người biết chia sẻ với tôi.
- Đặt ngược lại câu hỏi ban đầu, sống kỹ với nền văn hóa Pháp, tại sao chị chọn viết bằng tiếng Việt?
- Độc giả Pháp cũng rất hay hỏi tôi là tại sao không viết bằng tiếng Pháp. Tôi trả lời rất nhanh: Viết bằng tiếng Pháp thế nào được, tôi còn có bao nhiêu độc giả Việt Nam? Làm sao có thể bỏ họ được. Khi bạn viết ra bằng một ngôn ngữ, “đúng” là một đòi hỏi trung bình. Bạn phải tạo ra được ngôn ngữ của riêng bạn. Với tiếng Việt, tôi có thể làm được điều đó, tạo ra thứ tiếng Việt của riêng tôi.
- Xin cảm ơn chị!
Theo Hải Đường - ĐBND
1. Quan sát tiểu thuyết Việt Nam đương đại, chúng ta sẽ nhận thấy có một số triều đại, nhân vật được các nhà văn tập trung khai khác với mật độ khá dày như nhà Trần với Trần Khánh Dư, Trần Hưng Đạo (xuất hiện trong Sương mù tháng giêng của Uông Triều, Trần Khánh Dư của Lưu Sơn Minh, Chim ưng và chàng đan sọt của Bùi Việt Sĩ, Đức Thánh Trần của Trần Thanh Cảnh…), nhà Lê với Nguyễn Trãi (xuất hiện trong Hội thề của Nguyễn Quang Thân, Nguyễn Trãi của Bùi Anh Tấn…), nhà Tây Sơn với Nguyễn Huệ (xuất hiện trong Sông Côn mùa lũ của Nguyễn Mộng Giác, Tây Sơn bi hùng truyện của Lê Đình Danh…).
Có thể coi “Dế mèn phiêu lưu ký” là một trong những tác phẩm đặc biệt nhất của văn học Việt Nam, khi tính đến nay đã có rất nhiều ấn bản đặc biệt của bộ sách này ra đời. Mới đây, độc giả yêu mến “dế mèn” lại một lần nữa được thưởng thức cuộc phiêu lưu của chú dế lừng danh qua ấn phẩm mới với những bức tranh minh họa hoàn toàn khác biệt của nữ họa sĩ trẻ Đậu Đũa.
Ở vào tuổi 99, nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Tư vẫn tỏ ra minh mẫn và tinh anh khi giao lưu cùng bạn đọc nhân dịp tái bản bộ tiểu thuyết lịch sử Loạn 12 sứ quân do NXB Văn hóa - Văn nghệ tổ chức vào sáng ngày 20-9, tại Đường sách TPHCM.
Khi nghe tin nhà văn Vũ Tú Nam đã trút hơi thở cuối cùng, lòng tôi dâng lên một nỗi buồn. Nhưng trong nỗi buồn ấy là những ký ức đẹp và ấm áp về ông. Hình ảnh ông hiện lên và ngự trị trên hình ảnh ấy là ánh mắt và nụ cười hiền hậu.
"Túc tắc sống/ Ngày nối ngày/ Túc tắc say từng phút giây/ Tới khi nào buông tay bút/ Trời xanh ngút túc tắc bay..." - là những dòng thơ của con trai nhà văn Vũ Tú Nam mới đăng để tiễn biệt cha về cõi vĩnh hằng.
Sớm thứ hai ngày 7-9, Trung tướng Triệu Xuân Hòa (Ba Hòa), nguyên Tư lệnh Quân khu 7, gọi cho tôi: “Anh nghe tin buồn chưa, bác Văn Lê đi đêm qua rồi”. Tôi không tin vào tai mình, hỏi lại: “Văn Lê nào, có phải nhà thơ Văn Lê?”. Giọng Ba Hòa buồn rười rượi: “Mới sớm qua, bác ấy còn đi qua ngõ nhà chúng tôi. Bác ấy vẫn cười vui mà?”.
“Mở mắt ngày đã trôi” là tập truyện mới của tác giả Hoàng Thanh Hương nằm trong đề án Bảo tồn, phát huy giá trị tác phẩm văn học, nghệ thuật các dân tộc thiểu số Việt Nam do Liên hiệp các Hội Văn học Nghệ thuật Việt Nam thực hiện năm 2020.
Kỷ niệm 75 năm Quốc khánh 2.9, NXB Kim Đồng giới thiệu những cuốn sách về quê hương đất nước, lịch sử cách mạng, về Chủ tịch Hồ Chí Minh - lãnh tụ vĩ đại của dân tộc, nhằm góp phần bồi đắp trong thế hệ trẻ lòng yêu nước thương nòi, tinh thần tự hào, hiểu sâu sắc hơn vị trí, uy tín của Việt Nam trong thế giới hiện đại là khởi nguồn từ ngày 2.9.1945.
Nhà văn Nguyễn Huy Thiệp sinh năm 1950, là một trong những nhà văn tiêu biểu của văn học Việt Nam đương đại, với những sáng tác truyện ngắn đặc sắc, mang hơi hướng huyền thoại, cổ tích, hoặc lịch sử. Với Truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp (Đông A và NXB Văn học), bạn đọc sẽ được gặp lại một cuốn sách vừa quen vừa lạ.
Được xem là tác phẩm đỉnh cao trong cuộc đời sáng tác ngắn ngủi của “Ông vua phóng sự đất Bắc” Vũ Trọng Phụng, tiểu thuyết Số đỏ đã từng quen thuộc với nhiều thế hệ độc giả Việt Nam. Mới đây, tác phẩm vừa được trở lại với một diện mạo hoàn toàn mới do Công ty Sách Đông A và NXB Văn học ấn hành.
Nhà nghiên cứu Phan Ngọc khi nghiên cứu bản sắc văn hoá của người Việt Nam đã nêu ra bốn yếu tố: Tổ quốc, gia đình, thân phận và diện mạo. Theo tôi trong bốn yếu tố ấy thì quan trọng nhất, khi hai yếu tố kia đã có rồi, là thân phận và diện mạo, vì hai yếu tố này mới xác nhận vị thế một con người trong xã hội.
Tôi xúc động rưng rưng khi đọc những trang đầu cuốn sách mới của nhà văn Ngô Thảo với đầu đề “Nghiêng trong bóng chiều” (Nxb. Quân đội nhân dân, 2020), mừng ông tròn tuổi 80. Ông mở đầu: Khi trò chuyện với người già, lớp trẻ sợ nhất là các vị ôn nghèo, kể khổ về thời bao cấp.
Trở về với miền Nam để trả món nợ ân tình, đó chính là khát vọng để Nguyễn Thi sáng tạo nên những tác phẩm cố gắng khái quát bức tranh rộng lớn của một thời cả dân tộc lên đường đánh Mĩ.
Bao năm qua, những sáng tác về Hà Nội đều đặn ra mắt công chúng. Không phải ngẫu nhiên nhiều tác giả luôn ưu ái dành một góc văn chương của mình để viết về Hà Nội, bởi tình yêu, sự mến thương và cảm giác gắn bó với mảnh đất Thăng Long xưa.
Tiểu thuyết “Những ngày cách ly”, tác giả Bùi Quang Thắng, NXB Tổng hợp TP Hồ Chí Minh dài 160 trang được viết trong 12 ngày, đề tài liên quan đến dịch Covid-19. Đọc xong, điều đầu tiên, cũng đáng nể người viết, người biên tập, đây hẳn là cuộc chạy đua để cuốn sách đến được với bạn đọc trong thời gian nhanh nhất có thể.
Bộ sách đồ sộ với độ dày gần 5000 trang tập hợp 30 nhật ký của những người lính trong chiến tranh. Nhà thơ Nguyễn Quang Thiều gọi đây là bộ hồ sơ văn hóa Việt Nam. Còn Trung tướng, Anh hùng LLVTND Đoàn Sinh Hưởng thì coi bộ sách là dấu ấn tâm hồn của các anh hùng liệt sĩ.
5 năm sau khi nữ tác giả Svetlane Alexievich nhận giải Nobel văn học cho những cuốn sách thuộc thể loại phi hư cấu, Nhà xuất bản Phụ nữ Việt Nam, bằng sự nỗ lực lớn đã tiếp tục giới thiệu các tác phẩm của bà. Hai cuốn sách được dịch và giới thiệu mới là “Những nhân chứng cuối cùng” và “Những cậu bé kẽm” do dịch giả Phan Xuân Loan thực hiện.
Với mong muốn khơi gợi niềm thích thú và sự tò mò của độc giả nhỏ tuổi đến với sách giáo dục truyền thống, Nhà xuất bản Kim Đồng vừa giới thiệu câu chuyện về tấm gương anh hùng của chị Võ Thị Sáu và anh Lý Tự Trọng với phần lời kể được lồng ghép cùng những bức tranh tả thực hoành tráng.
Trong lòng tôi, nhà văn Phạm Tường Hạnh là người anh giàu tình nghĩa, sống sôi động, bộc trực, thẳng thắn, nhưng với đồng nghiệp thì luôn biết lắng nghe và tôn trọng. Hôm nay, kỷ niệm 100 năm ngày sinh nhà văn Phạm Tường Hạnh, xin có đôi dòng...
Đến nay, nhà văn Ma Văn Kháng đã cho ra đời hơn 20 tiểu thuyết, gần 200 truyện ngắn, chủ yếu lấy cảm hứng từ sử thi và thế sự đời tư, đề cập phần nhiều đến cuộc sống và con người vùng Tây Bắc.