“Đợi anh về” của K. Ximônốp - Bản tình ca bất tử

10:29 20/04/2009
HÀ VĂN LƯỠNG1. Cuộc chiến tranh giữ nước vĩ đại của nhân dân Xô Viết là một bản anh hùng ca bất tử của dân tộc Nga trong thế kỷ XX (1941-1945). Nó mãi mãi đi vào lịch sử vẻ vang và oanh liệt, không chỉ của đất nước Xô Viết mà còn cả với nhân loại tiến bộ yêu chuộng hòa bình trên thế giới, khẳng định bản chất tốt đẹp và chủ nghĩa anh hùng cách mạng của con ngưòi Xô Viết.

Trong mảng thơ văn viết về cuộc chiến tranh vệ quốc, bên cạnh những tác giả lớn như Sôlôkhốp, Phađêép, Suxcốp, Chikhônốp, Becgôn, Tvácđốpxki, Akhmatôva..., K. Ximônốp cũng trở thành một nghệ sĩ lớn với những tác phẩm văn xuôi (Những người sống và những người chết, Người ta sinh ra không phải là lính, Mùa hè cuối cùng) và thơ ca (Đợi anh về, Aliôsa nhớ chăng...) viết về hình tượng người chiến sĩ Hồng quân, trong đó Đợi anh về là một bài thơ nổi tiếng.

Bài thơ Đợi anh về ra đời vào những năm tháng ác liệt nhất của năm bắt đầu chiến tranh (1941). Đây là giai đoạn thử thách gay go quyết liệt đối với người dân Xô Viết, cũng là thời kỳ đòi hỏi sức mạnh đoàn kết toàn dân và niềm tin vững chắc vào chiến thắng ngày mai của dân tộc. Những cuộc chia ly sáng ngời “sắc đỏ” của những người vợ, người yêu tiễn chồng ra mặt trận diễn ra trong khung cảnh chiến tranh thật hào hùng. Niềm tin chiến thắng của những người lính Hồng quân gắn liền với tình yêu và lòng thủy chung của những người ở hậu phương đối với người ở tiền tuyến. Đó là bối cảnh để bài thơ Đợi anh về của K. Ximônốp ra đời.

Xuất hiện lần đầu tiên trên báo Sự thật vào năm 1942, ngay sau đó được đăng tải trên nhiều báo Trung ương và địa phương, được chép chuyền tay nhau trong chiến hào nóng bỏng thuốc súng, Đợi anh về thực sự trở thành người bạn tâm tình của những người lính Hồng quân. Bài thơ là một khúc ca về tình yêu và lòng chung thủy của lứa đôi làm lay động trái tim của triệu triệu com tim người lính Hồng quân ngoài mặt trận và cả của những người ở hậu phương: “Đợi anh về đối với biết bao người ở tiền tuyến và hậu phương - những lời đó trong bài thơ của Ximônốp đã trở thành lời thề chung thủy với tình yêu, thành biểu tượng tình vợ chồng thiêng liêng, thành khẩu lệnh của niềm hy vọng và nỗi tuyệt vọng. Không phải ngẫu nhiên mà những mảnh báo Sự thật có đăng bài thơ đó đã được những người đàn ông và phụ nữ giữ gìn cẩn thận trong các túi ba lô quần áo, dán vào các cuốn sổ ghi chép và học thuộc lòng” (2, tr.221).

Nhận xét về điều này, nhà nghiên cứu văn học Nga X.P. Kônheskin cho rằng: “Có lẽ trong lịch sử thơ ca thế giới chưa có một bài thơ nào như vậy. Bài thơ Đợi anh về... đã được gửi từ hậu phương ra mặt trận và từ mặt trận về hậu phương. Nó đã gieo niềm hy vọng cho cả những người tin rằng họ đang được chờ đợi trở về và những người đang bền lòng chờ đợi” (dẫn lại theo Tạp chí Văn học nước ngoài, số 6 - 1996, tr.221). Nhà thơ Xlôbôxki, trong một lần trò chuyện về văn chương đã nhớ lại những ký ức của mình về bài thơ Đợi anh về trong chiến tranh thật cảm động: “Các đồng chí chính ủy, các đồng chí kỵ binh và chống xe tăng rút từ trong túi áo ra mảnh giấy cắt từ báo Pravđa, trong đó có bài thơ Đợi anh về của Ximônốp. Bài thơ nói lên niềm tin và tình cảm mãnh liệt của người chiến sĩ Hồng quân đối với người yêu, người vợ ở hậu phương và đối với ngày thắng lợi cuối cùng của đất nước” (1, tr.721). Như vậy, bài thơ Đợi anh về là một hiện tượng văn học đặc biệt cuốn hút được sự mến mộ của đông đảo bạn đọc trong nước và cả những độc giả ở các quốc gia khác. Ở Việt Nam, các thế hệ người đọc đầu tiên đã biết đến bài thơ này vào năm 1947 qua bản dịch nổi tiếng của nhà thơ Tố Hữu (được in trong Tuyển tập Việt Bắc). Chính bài thơ Đợi anh về, cũng trở nên thân thiết, gần gũi với người chiến sĩ Việt Nam thời chống Pháp và chống Mỹ, nói hộ tình cảm của họ với người vợ, người yêu ở hậu phương, góp phần khẳng định niềm tin vào chiến thắng.

2. Trong văn học thời kỳ chiến tranh vệ quốc, bên cạnh hình tượng người anh hùng, hình tượng Tổ quốc và người chiến sĩ Hồng quân luôn gắn liền với hình tượng người yêu, người vợ, người mẹ già tóc bạc đang mỏi mòn chờ người con từ mặt trận trở về. Nằm trong mạch chung về chủ đề đó, cùng với Đợi anh về của Ximônốp là những bài thơ như Nước Nga của Prôcôphiép, Kachiusa của Inxacốpxki, Đôi bờ của Pôgiênhian và nhiều tác phẩm khác. Trong bão lửa khốc liệt của chiến tranh, những “con chim sơn ca vẫn hót và thơ trữ tình Xô Viết vẫn cất lời ngọt ngào, dịu dàng, ấm áp niềm tin và tình thương mến” (1, tr.271).

Đợi anh về trước hết là một bài thơ trữ tình chan chứa tình cảm được cất lên từ trái tim của Ximônốp: một thi sĩ - một chiến sĩ Hồng quân. Toàn bộ bài thơ nổi bật hai hình tượng nhân vật trữ tình, đó là anh chiến sĩ Hồng quân và người yêu (hay người vợ) ở hậu phương. Bài thơ viết dưới hình thức như một bức thư của người mặt trận gửi cho người thân ở quê hương. Chính bằng hình thức đó đã tạo điều kiện thuận lợi cho nhân vật trữ tình bộc lộ cảm xúc của mình. Vì thế, toàn bộ bài thơ là lời tâm tình, nhắn nhủ của người lính đối với người yêu, người vợ ở hậu phương. Bằng những lời thơ chan chứa tình yêu, Đợi anh về đã làm nổi rõ mối tình thủy chung và niềm tin mãnh liệt vào ngày trở về chiến thắng của những người chiến sĩ Hồng quân. Những người lính đi ra mặt trận để bảo vệ Tổ quốc để lại sau lưng biết bao tình cảm đối với người thân, gia đình và quê hương làng xóm. Và có thể trong số họ sẽ có người không trở về, mãi mãi nằm lại ở “tuổi mười chín”. Họ không hề sợ nguy nan, thậm chí cả cái chết để giành giữ từng tấc đất cho Tổ quốc. Bởi khi Tổ quốc không còn thì hạnh phúc lứa đôi và mỗi con người cũng trở thành vô vọng. Vì thế, những người chiến sĩ Hồng quân đã ý thức được rằng, họ bảo vệ đất nước đồng nghĩa với bảo vệ cả hạnh phúc gia đình của mình. Và họ sẽ vượt qua tất cả để chiến đấu và chiến thắng kẻ thù. Niềm tin mãnh liệt vào sự thủy chung, sự chờ đợi của người yêu ở hậu phương đã chắp thêm nghị lực để người lính trở về trong ngạo nghễ.

Mở đầu bài thơ là một lời nhắn nhủ thủ thỉ:
            Em ơi đợi anh về
            Đợi anh hoài em nhé

Hai câu thơ mở đầu thật trữ tình chan chứa tình yêu đã gieo vào lòng người đọc một ấn tượng sâu sắc. Sự chờ đợi được tác giả nhắc lại nhiều lần trong một bài thơ và phải đối mặt với những khó khăn, trở ngại không chỉ do thời tiết mang lại (mưa dầm dề, tuyết rơi gió nổi, nắng cháy) mà còn cả sự thất vọng thậm chí sự dèm pha của người đời (tin anh vắng vẻ. Bạn cũ quên rồi, hồn anh yên nghỉ nấm mồ xanh...). Những thử thách của hoàn cảnh như là thước đo về niềm tin và lòng chung thủy của lứa đôi. Người con gái phải vượt qua những trở lực của thiên nhiên, con người mà cao hơn là vượt qua chính mình để giữ vững niềm tin. Chính niềm tin vững chắc vào sự chờ đợi của người vợ ở hậu phương xa xôi đã tiếp thêm sức mạnh của người lính nơi biên thùy xiết chặt cây súng:
            Đợi anh hoài, em nghe
            Tin rằng anh sắp về
            Đợi anh, anh lại về

Người chiến sĩ chiến thắng trở về trong ánh hào quang của ngày sum họp:
            Tan giặc bước đường quê
            Anh của em lại về!

Sự trở về trong vinh quang của người lính Hồng quân phải đâu là một sự “sống sót” hay “may mắn”. Vì sao “trong chết cười ngạo nghễ” và “anh chẳng chết” trong chiến tranh? Không phải phép mầu nhiệm nào của thần thánh cứu sống anh mà chính là em - người con gái hậu phương biết chờ đợi, biết vững tin và giữ lòng chung thủy đã cứu anh thoát chết. Sức mạnh tinh thần và niềm tin của con người khi đã biến thành sức mạnh vật chất thì trở nên mạnh mẽ vô cùng.

3. Để chuyển tải nội dung trên, bài thơ Đợi anh về được tác giả cấu trúc theo một cách khá đặc biệt với một hệ thống ngôn từ khá đặc sắc. Toàn bộ bài thơ được cấu trúc thành ba đoạn (ba khổ thơ), mỗi đoạn gồm 12 câu và bắt đầu mỗi đoạn là câu: Đợi anh, anh sẽ về. Ba câu thơ ấy được lặp lại trong phần mở đầu của mỗi khổ thơ tạo thành một điệp khúc như sợi chỉ đỏ xuyên suốt bài thơ. Nó vừa có ý nghĩa làm tăng nhạc điệu bài thơ vừa nhấn mạnh ý của tác giả. Trong Đợi anh về, tính chất thống thiết, nồng nàn của nhân vật trữ tình và sự lo lắng buồn phiền được lặp lại nhiều lần theo nhịp độ tăng dần thông qua các ngữ điệu, tạo nên sự căng thẳng, thiết tha. ở đó, “đợi” là động từ chủ đạo của bài thơ được tác giả sử dụng đến 16 lần. Trong đó, động từ “đợi” ở dạng mệnh lệnh thức được sử dụng 11 lần, nguyên thể 2 lần và các dạng khác 3 lần. Xét về mặt cấu trúc và ngữ nghĩa, việc lặp lại động từ “đợi” trong cấu trúc câu thơ ở các dạng khác nhau đã tạo nên một trường nghĩa mang tính hình tượng tác động thẩm mỹ đến người đọc và người nghe. Mặt khác, trong Đợi anh về, nhà thơ cũng sử dụng lối cấu trúc câu thơ lặp lại và đặt trong thế đối lập, tương phản:

            Cứ đợi khi...
            Cứ đợi lúc...
            Mặc cho...
            Mặc dù...

Việc lặp lại về sự chờ đợi được nhấn mạnh cả về phương diện thời gian lẫn không gian càng làm tăng thêm ý nghĩa của bài thơ. Giọng điệu cuối bài thơ như bị phân đôi. Đó vừa là lời của nhân vật trữ tình - anh chiến sĩ Hồng quân, đồng thời vừa là lời của tác giả. Sức mạnh của sự chờ đợi đã cứu sống người con trai ngoài mặt trận và tình yêu là cội nguồn của niềm tin cho sự gặp gỡ ngày mai.

Bài thơ Đợi anh về trở thành người bạn tâm tình của những người ra trận và của cả những người ở hậu phương. Niềm tin và lòng chung thủy của tình yêu là cội nguồn cho hạnh phúc lứa đôi, đồng thời là động lực rất quan trọng để người chiến sĩ Hồng quân chiến đấu và chiến thắng kẻ thù.

Năm tháng đã qua đi, cuộc chiến tranh vĩ đại của nhân dân Xô Viết đã đi qua 60 năm, nhưng thế hệ những người cầm súng năm xưa và thế hệ trẻ hôm nay vẫn đọc, hát và tự hào về những vần thơ chan chứa tình yêu ấy. Đợi anh về là bài thơ bất tử viết về chiến tranh của Ximônốp.

H.V.L
(201/11-05)

----------------------
Tài liệu tham khảo

1. Nhiều tác giả, Lịch sử văn học Nga, NXB Giáo dục, Hà Nội, 1997.
2. Tạp chí Văn học nước ngoài, số 6 - 1996.

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • TRẦN VĂN LÝAi sản xuất lốp cứ sản xuất lốp. Ai làm vỏ cứ làm vỏ. Ai làm gầm cứ làm gầm. Nơi nào sản xuất máy cứ sản xuất máy. Xong tất cả được chở đến một nơi để lắp ráp thành chiếc ô tô. Sự chuyên môn hoá đó trong dây chuyền sản xuất ở châu Âu thế kỷ trước (thế kỷ 20) đã khiến cho nhiều người mơ tưởng rằng: Có thể "sản xuất" được thơ và sự "mơ tưởng" ấy vẫn mãi mãi chỉ là mơ tưởng mà thôi!

  • HOÀNG VŨ THUẬTChúng ta đã có nhiều công trình, trang viết đánh giá nhận định thơ miền Trung ngót thế kỷ qua, một vùng thơ gắn với sinh mệnh một vùng đất mà dấu ấn lịch sử luôn bùng nổ những sự kiện bất ngờ. Một vùng đất đẫm máu và nước mắt, hằn lên vầng trán con người nếp nhăn của nỗi lo toan chạy dọc thế kỷ. Thơ nảy sinh từ đó.

  • BÙI QUANG TUYẾNThơ mới là một hiện tượng nổi bật của văn học Việt Nam nói chung và thơ ca nói riêng trong thế kỷ XX. Nó vừa ra đời đã nhanh chóng khẳng định vị trí xứng dáng trong nền văn học dân tộc với các "hoàng tử thơ": Thế Lữ , Xuân Diệu, Huy Cận, Lưu Trọng Lư, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử v.v... Đồng thời, Thơ mới là một hiện tượng thơ ca gây rất nhiều ý kiến khác nhau trong giới phê bình, nghiên cứu và độc giả theo từng thời kỳ lịch sử xã hội, cho đến bây giờ việc đánh giá vẫn còn đặt ra sôi nổi. Với phạm vi bài viết này, chúng tôi điểm lại những khái niệm về Thơ mới và sự đổi mới nghệ thuật thơ của các bậc thầy đi trước và tìm câu trả lời cho là hợp lý trong bao nhiêu ý kiến trái ngược nhau.

  • MẠNH LÊ Thơ ca hiện đại Việt Nam thế kỷ XX đã thu được những thành tựu to lớn đóng góp vào sự phát triển của lịch sử thơ ca dân tộc. Đặc biệt từ ngay sau Cách mạng tháng 8 năm 1945, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời thay thế chế độ phong kiến thực dân hơn trăm năm đô hộ nước ta cùng với khí thế cách mạng kháng chiến cứu nước theo lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh tháng 12 năm 1946 đã thổi vào đời sống văn học một luồng sinh khí mới để từ đó thơ ca hiện đại Việt Nam mang một âm hưởng mới, một màu sắc mới.

  • NGUYỄN KHẮC THẠCHNếu gọi Huế Thơ với tư cách đối tượng thẩm mĩ thì chủ thể thẩm mĩ của nó trước hết và sau cùng vẫn là sự hoá sinh Thơ Huế. Đương nhiên, không hẳn chỉ có Thơ Huế mới là chủ thể thẩm mĩ của Huế Thơ và cũng đương nhiên không hẳn chỉ có Huế Thơ mới là đối tượng thẩm mĩ của Thơ Huế. Huế Thơ và Thơ Huế vẫn là hai phạm trù độc lập trong chừng mực nào đó và có khi cả hai đều trở thành đối tượng thẩm mĩ của một đối tượng khác.

  • ĐỖ LAI THÚYThanh sơn tự tiếu đầu tương hạc                                  Nguyễn KhuyếnNói đến Dương Khuê là nói đến hát nói. Và nói đến hát nói, thì Hồng Hồng, Tuyết Tuyết làm tôi thích hơn cả. Đấy không chỉ là một mẫu mực của thể loại, mà còn làm một không gian thẩm mỹ nhiều chiều đủ cho những phiêu lưu của cái đọc.

  • NGUYỄN NGỌC THIỆNHải Triều tên thật là Nguyễn Khoa Văn, sinh năm 1908 trong một gia đình Nho học, khoa bảng. Năm 20 tuổi, trở thành đảng viên trẻ của Tân Việt cách mạng Đảng, Nguyễn Khoa Văn bắt đầu cầm bút viết báo với bút danh Nam Xích Tử (Chàng trai đỏ). Điều này đã khiến trong lần gặp gỡ đầu tiên, người trai có "thân hình bé nhỏ và cử chỉ nhanh nhẹn theo kiểu chim chích" (1) ấy đã gây được cảm tình nồng hậu của Trần Huy Liệu- chủ nhiệm Nam Cường thư xã, người bạn cùng trang lứa tuy vừa mới quen biết, nhưng đã chung chí hướng tìm đường giải phóng cho dân tộc, tự do cho đất nước.

  • TÔ VĨNH HÀ Huế đang trở lạnh với "mưa vẫn mưa bay" giăng mờ như hư ảo những gương mặt người xuôi ngược trên con đường tôi đi. Tôi giật mình vì một tà áo trắng vừa trôi qua. Dáng đi êm nhẹ với cánh dù mỏng manh như hơi nghiêng xuống cùng nỗi cô đơn. Những nhọc nhằn của tuổi mơ chưa đến nỗi làm bờ vai trĩu mệt nhưng cũng đủ tạo nên một "giọt chiều trên lá(1), cam chịu và chờ đợi nỗi niềm nào đó hiu hắt như những hạt mưa...

  • NGUYỄN HỒNG DŨNG1. Một cuộc đời lặng lẽ và những truyện ngắn nổi danhO' Henry, tên thật là William Sydney Porter, được đánh giá là người viết truyện ngắn xuất sắc nhất của nước Mỹ những năm đầu thế kỷ XX. Ông sinh tại Greenboro, tiểu bang North Carolina vào năm 1862. Năm 15 tuổi (1877), ông thôi học và vào làm việc trong một hiệu thuốc tây. Vào tuổi hai mươi, ông bị đau nặng và sức khoẻ sa sút nên đã đến dưỡng sức ở một nông trại tại tiểu bang Texas. Ông đã sống ở đấy hai năm, đã làm quen với nhiều người và hiểu rất rõ tính cách miền Tây. Sau này, ông đã kể về họ rất sinh động trong tập truyện ngắn có tựa đề đầy xúc cảm Trái tim miền Tây.

  • MAI KHẮC ỨNGCó thể sau khi dẹp được loạn 12 sứ quân, Đinh Tiên Hoàng (968- 979) thống nhất lãnh thổ và lên ngôi hoàng đế, đã đặt được cơ sở ban đầu và xác định chủ quyền Đại Cồ Việt lên tận miền biên cương Tây Bắc vốn là địa bàn chịu ảnh hưởng Kiểu Công Hãn. Trên cơ sở 10 đạo thời Đinh nhà vua Lý Thái Tổ (1010- 1028) mới đổi thành 24 phủ, lộ. Nguyễn Trãi viết Dư địa chí (thế kỷ XV) vẫn giữ nguyên tên gọi đạo Lâm Tây. Tức vùng Tây- Bắc ngày nay.

  • TRẦN ANH VINHÂm vang của những sự kiện xẩy ra năm Ất Dậu (1885) không những vẫn còn đọng trong tâm trí người dân núi Ngự mà còn được ghi lại trong một số tác phẩm. Bài vè “Thất thủ Kinh đô” do cụ Mới đi kể rong hàng mấy chục năm ròng là một tác phẩm văn học dân gian, được nhiều người biết và ngưỡng mộ. Riêng Phan Bội Châu có viết hai bài:+ Kỷ niệm ngày 23 tháng Năm ở Huế (Thơ)+ Văn tế cô hồn ngày 23 tháng Năm ở Kinh thành Huế.

  • HOÀNG CÔNG KHANHCó một thực tế: số các nhà văn cổ kim đông tây viết tiểu thuyết lịch sử không nhiều. Ở Việt Nam càng ít. Theo ý riêng tôi nguyên nhân thì nhiều, nhưng cơ bản là nhà văn viết loại này phải đồng thời là nhà sử học, chí ít là có kiến thức sâu rộng về lịch sử. Cũng nhiều trường hợp người viết có đủ vốn liếng cả hai mặt ấy, nhưng hoặc ngại mất nhiều công sức để đọc hàng chục bộ chính sử, phải sưu tầm, dã ngoại, nghiên cứu, đối chiếu, chọn lọc hoặc đơn giản là chưa, thậm chí không quan tâm đến lịch sử.

  • TRƯƠNG ĐĂNG DUNG                 Tặng Đỗ Lai ThuýChủ nghĩa hiện đại là kết quả của những nỗ lực hiện đại hoá đời sống và tư duy xẩy ra từ những năm cuối của thế kỷ XIX, ở Châu Âu. Những thành tựu nổi bật của khoa học tự nhiên, của triết học, xã hội học và tâm lí học đã tác động đến cách nghĩ của con người hiện đại trước các vấn đề về tồn tại, đạo đức, tâm lí. Tư tưởng của Nietzsche, Husserl, hay Freud không chỉ ảnh hưởng đến tư duy hiện đại mà tiếp tục được nhắc đến nhiều ở thời hậu hiện đại.

  • ĐẶNG TIẾNTân Hình Thức là một trường phái thi ca hiện đại được phổ biến từ năm bảy năm nay, phát khởi do Tạp Chí Thơ, ấn hành tại Mỹ, chủ yếu từ số 18, xuân 2000 “chuyển đổi thế kỷ”, và được nhiều nhà văn, nhà thơ trong và ngoài nước hưởng ứng. Tên Tân Hình Thức dịch từ tiếng Anh New Formalism, một trường phái thơ Mỹ, thịnh hành những năm1980 - 1990.

  • NGUYỄN ĐĂNG ĐIỆP Một ngày kia, cát bụi vùng Hoan Diễn đã sinh tạo một “kẻ ham chơi”. Y cứ lãng đãng trong đời như một khách giang hồ mang trái tim nhạy cảm, một trái tim đầy nhạc với những đốm lửa buồn. Để rồi sau những cuộc say tràn cung mây, khi dòng cảm hứng chợt bùng lên từ những vùng u ẩn nằm sâu trong cõi nhớ, những giai âm ùa về như những luồng điện làm vỡ òa bí mật: có thương có nhớ có khóc có cười- có cái chớp mắt đã ngàn năm trôi. Đây là những câu thơ khép lại một trong những bài thơ hay nhất của Nguyễn Trọng Tạo: Đồng dao cho người lớn(1).

  • NGUYỄN KHẮC PHÊTừ lâu, ở Huế, nhiều người đã biết tiếng ba công chúa, ba nữ sĩ (Tam Khanh) con vua Minh Mạng, em gái nhà thơ nổi tiếng Tùng Thiện Vương Miên Thẩm, trong đó MAI AM là người được nhắc đến nhiều nhất. Mai Am nổi tiếng trước hết vì tài thơ và cùng vì cuộc đời riêng không được may mắn của bà, tuy bà là người sống thọ nhất trong “Tam Khanh”.

  • LÊ DỤC TÚCùng với nghệ thuật tiếp cận và phản ánh hiện thực, nghệ thuật miêu tả và khắc họa chân dung nhân vật, nghệ thuật châm biếm và sử dụng ngôn ngữ cũng là một trong những nét nghệ thuật đặc sắc ta thường gặp trong các phóng sự Việt Nam 1932 - 1945.

  • NGUYỄN VĂN DÂNTrong thế kỷ XX vừa qua, thế giới, đặc biệt là thế giới phương Tây, đã sản sinh ra biết bao phương pháp phục vụ cho nghiên cứu văn học, trong đó phương pháp cấu trúc là một trong những phương pháp được quan tâm nhiều nhất.

  • AN KHÁNHHai mươi tám năm kể từ ngày chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam, đủ để một thế hệ trưởng thành, một dòng thơ định vị. Tháng 3 vừa qua, Hội Văn nghệ Hà Nội và nhóm nhà thơ - nhà văn - cựu binh Mỹ có cuộc giao lưu thú vị, nhằm tìm ra tiếng nói "tương đồng", sự thân ái giữa các thế hệ Mỹ - Việt thông qua những thông điệp của văn chương.

  • TRẦN ĐÌNH SỬ Bạn đọc Việt Nam vốn không xa lạ với phê bình phân tâm học hơn nửa thế kỷ nay, bởi nó đã bắt đầu được giới thiệu vào nước ta từ những năm ba mươi, bốn mươi thế kỷ trước. Nhưng đáng tiếc nó đã bị kỳ thị rất nặng nề từ nhiều phía. Giống như nhân loại có thời phản ứng với Darwin vì không chấp nhận lý thuyết xem con người là một loài cao quý lại có thể tiến hóa từ một loài tầm thường như loài khỉ, người ta cũng không thể chấp nhận lý thuyết phân tâm học xem con người - một sinh vật có lý trí cao quý lại có thể bị sai khiến bởi bản năng tầm thường như các loài vật hạ đẳng!