“Đợi anh về” của K. Ximônốp - Bản tình ca bất tử

10:29 20/04/2009
HÀ VĂN LƯỠNG1. Cuộc chiến tranh giữ nước vĩ đại của nhân dân Xô Viết là một bản anh hùng ca bất tử của dân tộc Nga trong thế kỷ XX (1941-1945). Nó mãi mãi đi vào lịch sử vẻ vang và oanh liệt, không chỉ của đất nước Xô Viết mà còn cả với nhân loại tiến bộ yêu chuộng hòa bình trên thế giới, khẳng định bản chất tốt đẹp và chủ nghĩa anh hùng cách mạng của con ngưòi Xô Viết.

Trong mảng thơ văn viết về cuộc chiến tranh vệ quốc, bên cạnh những tác giả lớn như Sôlôkhốp, Phađêép, Suxcốp, Chikhônốp, Becgôn, Tvácđốpxki, Akhmatôva..., K. Ximônốp cũng trở thành một nghệ sĩ lớn với những tác phẩm văn xuôi (Những người sống và những người chết, Người ta sinh ra không phải là lính, Mùa hè cuối cùng) và thơ ca (Đợi anh về, Aliôsa nhớ chăng...) viết về hình tượng người chiến sĩ Hồng quân, trong đó Đợi anh về là một bài thơ nổi tiếng.

Bài thơ Đợi anh về ra đời vào những năm tháng ác liệt nhất của năm bắt đầu chiến tranh (1941). Đây là giai đoạn thử thách gay go quyết liệt đối với người dân Xô Viết, cũng là thời kỳ đòi hỏi sức mạnh đoàn kết toàn dân và niềm tin vững chắc vào chiến thắng ngày mai của dân tộc. Những cuộc chia ly sáng ngời “sắc đỏ” của những người vợ, người yêu tiễn chồng ra mặt trận diễn ra trong khung cảnh chiến tranh thật hào hùng. Niềm tin chiến thắng của những người lính Hồng quân gắn liền với tình yêu và lòng thủy chung của những người ở hậu phương đối với người ở tiền tuyến. Đó là bối cảnh để bài thơ Đợi anh về của K. Ximônốp ra đời.

Xuất hiện lần đầu tiên trên báo Sự thật vào năm 1942, ngay sau đó được đăng tải trên nhiều báo Trung ương và địa phương, được chép chuyền tay nhau trong chiến hào nóng bỏng thuốc súng, Đợi anh về thực sự trở thành người bạn tâm tình của những người lính Hồng quân. Bài thơ là một khúc ca về tình yêu và lòng chung thủy của lứa đôi làm lay động trái tim của triệu triệu com tim người lính Hồng quân ngoài mặt trận và cả của những người ở hậu phương: “Đợi anh về đối với biết bao người ở tiền tuyến và hậu phương - những lời đó trong bài thơ của Ximônốp đã trở thành lời thề chung thủy với tình yêu, thành biểu tượng tình vợ chồng thiêng liêng, thành khẩu lệnh của niềm hy vọng và nỗi tuyệt vọng. Không phải ngẫu nhiên mà những mảnh báo Sự thật có đăng bài thơ đó đã được những người đàn ông và phụ nữ giữ gìn cẩn thận trong các túi ba lô quần áo, dán vào các cuốn sổ ghi chép và học thuộc lòng” (2, tr.221).

Nhận xét về điều này, nhà nghiên cứu văn học Nga X.P. Kônheskin cho rằng: “Có lẽ trong lịch sử thơ ca thế giới chưa có một bài thơ nào như vậy. Bài thơ Đợi anh về... đã được gửi từ hậu phương ra mặt trận và từ mặt trận về hậu phương. Nó đã gieo niềm hy vọng cho cả những người tin rằng họ đang được chờ đợi trở về và những người đang bền lòng chờ đợi” (dẫn lại theo Tạp chí Văn học nước ngoài, số 6 - 1996, tr.221). Nhà thơ Xlôbôxki, trong một lần trò chuyện về văn chương đã nhớ lại những ký ức của mình về bài thơ Đợi anh về trong chiến tranh thật cảm động: “Các đồng chí chính ủy, các đồng chí kỵ binh và chống xe tăng rút từ trong túi áo ra mảnh giấy cắt từ báo Pravđa, trong đó có bài thơ Đợi anh về của Ximônốp. Bài thơ nói lên niềm tin và tình cảm mãnh liệt của người chiến sĩ Hồng quân đối với người yêu, người vợ ở hậu phương và đối với ngày thắng lợi cuối cùng của đất nước” (1, tr.721). Như vậy, bài thơ Đợi anh về là một hiện tượng văn học đặc biệt cuốn hút được sự mến mộ của đông đảo bạn đọc trong nước và cả những độc giả ở các quốc gia khác. Ở Việt Nam, các thế hệ người đọc đầu tiên đã biết đến bài thơ này vào năm 1947 qua bản dịch nổi tiếng của nhà thơ Tố Hữu (được in trong Tuyển tập Việt Bắc). Chính bài thơ Đợi anh về, cũng trở nên thân thiết, gần gũi với người chiến sĩ Việt Nam thời chống Pháp và chống Mỹ, nói hộ tình cảm của họ với người vợ, người yêu ở hậu phương, góp phần khẳng định niềm tin vào chiến thắng.

2. Trong văn học thời kỳ chiến tranh vệ quốc, bên cạnh hình tượng người anh hùng, hình tượng Tổ quốc và người chiến sĩ Hồng quân luôn gắn liền với hình tượng người yêu, người vợ, người mẹ già tóc bạc đang mỏi mòn chờ người con từ mặt trận trở về. Nằm trong mạch chung về chủ đề đó, cùng với Đợi anh về của Ximônốp là những bài thơ như Nước Nga của Prôcôphiép, Kachiusa của Inxacốpxki, Đôi bờ của Pôgiênhian và nhiều tác phẩm khác. Trong bão lửa khốc liệt của chiến tranh, những “con chim sơn ca vẫn hót và thơ trữ tình Xô Viết vẫn cất lời ngọt ngào, dịu dàng, ấm áp niềm tin và tình thương mến” (1, tr.271).

Đợi anh về trước hết là một bài thơ trữ tình chan chứa tình cảm được cất lên từ trái tim của Ximônốp: một thi sĩ - một chiến sĩ Hồng quân. Toàn bộ bài thơ nổi bật hai hình tượng nhân vật trữ tình, đó là anh chiến sĩ Hồng quân và người yêu (hay người vợ) ở hậu phương. Bài thơ viết dưới hình thức như một bức thư của người mặt trận gửi cho người thân ở quê hương. Chính bằng hình thức đó đã tạo điều kiện thuận lợi cho nhân vật trữ tình bộc lộ cảm xúc của mình. Vì thế, toàn bộ bài thơ là lời tâm tình, nhắn nhủ của người lính đối với người yêu, người vợ ở hậu phương. Bằng những lời thơ chan chứa tình yêu, Đợi anh về đã làm nổi rõ mối tình thủy chung và niềm tin mãnh liệt vào ngày trở về chiến thắng của những người chiến sĩ Hồng quân. Những người lính đi ra mặt trận để bảo vệ Tổ quốc để lại sau lưng biết bao tình cảm đối với người thân, gia đình và quê hương làng xóm. Và có thể trong số họ sẽ có người không trở về, mãi mãi nằm lại ở “tuổi mười chín”. Họ không hề sợ nguy nan, thậm chí cả cái chết để giành giữ từng tấc đất cho Tổ quốc. Bởi khi Tổ quốc không còn thì hạnh phúc lứa đôi và mỗi con người cũng trở thành vô vọng. Vì thế, những người chiến sĩ Hồng quân đã ý thức được rằng, họ bảo vệ đất nước đồng nghĩa với bảo vệ cả hạnh phúc gia đình của mình. Và họ sẽ vượt qua tất cả để chiến đấu và chiến thắng kẻ thù. Niềm tin mãnh liệt vào sự thủy chung, sự chờ đợi của người yêu ở hậu phương đã chắp thêm nghị lực để người lính trở về trong ngạo nghễ.

Mở đầu bài thơ là một lời nhắn nhủ thủ thỉ:
            Em ơi đợi anh về
            Đợi anh hoài em nhé

Hai câu thơ mở đầu thật trữ tình chan chứa tình yêu đã gieo vào lòng người đọc một ấn tượng sâu sắc. Sự chờ đợi được tác giả nhắc lại nhiều lần trong một bài thơ và phải đối mặt với những khó khăn, trở ngại không chỉ do thời tiết mang lại (mưa dầm dề, tuyết rơi gió nổi, nắng cháy) mà còn cả sự thất vọng thậm chí sự dèm pha của người đời (tin anh vắng vẻ. Bạn cũ quên rồi, hồn anh yên nghỉ nấm mồ xanh...). Những thử thách của hoàn cảnh như là thước đo về niềm tin và lòng chung thủy của lứa đôi. Người con gái phải vượt qua những trở lực của thiên nhiên, con người mà cao hơn là vượt qua chính mình để giữ vững niềm tin. Chính niềm tin vững chắc vào sự chờ đợi của người vợ ở hậu phương xa xôi đã tiếp thêm sức mạnh của người lính nơi biên thùy xiết chặt cây súng:
            Đợi anh hoài, em nghe
            Tin rằng anh sắp về
            Đợi anh, anh lại về

Người chiến sĩ chiến thắng trở về trong ánh hào quang của ngày sum họp:
            Tan giặc bước đường quê
            Anh của em lại về!

Sự trở về trong vinh quang của người lính Hồng quân phải đâu là một sự “sống sót” hay “may mắn”. Vì sao “trong chết cười ngạo nghễ” và “anh chẳng chết” trong chiến tranh? Không phải phép mầu nhiệm nào của thần thánh cứu sống anh mà chính là em - người con gái hậu phương biết chờ đợi, biết vững tin và giữ lòng chung thủy đã cứu anh thoát chết. Sức mạnh tinh thần và niềm tin của con người khi đã biến thành sức mạnh vật chất thì trở nên mạnh mẽ vô cùng.

3. Để chuyển tải nội dung trên, bài thơ Đợi anh về được tác giả cấu trúc theo một cách khá đặc biệt với một hệ thống ngôn từ khá đặc sắc. Toàn bộ bài thơ được cấu trúc thành ba đoạn (ba khổ thơ), mỗi đoạn gồm 12 câu và bắt đầu mỗi đoạn là câu: Đợi anh, anh sẽ về. Ba câu thơ ấy được lặp lại trong phần mở đầu của mỗi khổ thơ tạo thành một điệp khúc như sợi chỉ đỏ xuyên suốt bài thơ. Nó vừa có ý nghĩa làm tăng nhạc điệu bài thơ vừa nhấn mạnh ý của tác giả. Trong Đợi anh về, tính chất thống thiết, nồng nàn của nhân vật trữ tình và sự lo lắng buồn phiền được lặp lại nhiều lần theo nhịp độ tăng dần thông qua các ngữ điệu, tạo nên sự căng thẳng, thiết tha. ở đó, “đợi” là động từ chủ đạo của bài thơ được tác giả sử dụng đến 16 lần. Trong đó, động từ “đợi” ở dạng mệnh lệnh thức được sử dụng 11 lần, nguyên thể 2 lần và các dạng khác 3 lần. Xét về mặt cấu trúc và ngữ nghĩa, việc lặp lại động từ “đợi” trong cấu trúc câu thơ ở các dạng khác nhau đã tạo nên một trường nghĩa mang tính hình tượng tác động thẩm mỹ đến người đọc và người nghe. Mặt khác, trong Đợi anh về, nhà thơ cũng sử dụng lối cấu trúc câu thơ lặp lại và đặt trong thế đối lập, tương phản:

            Cứ đợi khi...
            Cứ đợi lúc...
            Mặc cho...
            Mặc dù...

Việc lặp lại về sự chờ đợi được nhấn mạnh cả về phương diện thời gian lẫn không gian càng làm tăng thêm ý nghĩa của bài thơ. Giọng điệu cuối bài thơ như bị phân đôi. Đó vừa là lời của nhân vật trữ tình - anh chiến sĩ Hồng quân, đồng thời vừa là lời của tác giả. Sức mạnh của sự chờ đợi đã cứu sống người con trai ngoài mặt trận và tình yêu là cội nguồn của niềm tin cho sự gặp gỡ ngày mai.

Bài thơ Đợi anh về trở thành người bạn tâm tình của những người ra trận và của cả những người ở hậu phương. Niềm tin và lòng chung thủy của tình yêu là cội nguồn cho hạnh phúc lứa đôi, đồng thời là động lực rất quan trọng để người chiến sĩ Hồng quân chiến đấu và chiến thắng kẻ thù.

Năm tháng đã qua đi, cuộc chiến tranh vĩ đại của nhân dân Xô Viết đã đi qua 60 năm, nhưng thế hệ những người cầm súng năm xưa và thế hệ trẻ hôm nay vẫn đọc, hát và tự hào về những vần thơ chan chứa tình yêu ấy. Đợi anh về là bài thơ bất tử viết về chiến tranh của Ximônốp.

H.V.L
(201/11-05)

----------------------
Tài liệu tham khảo

1. Nhiều tác giả, Lịch sử văn học Nga, NXB Giáo dục, Hà Nội, 1997.
2. Tạp chí Văn học nước ngoài, số 6 - 1996.

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGUYỄN ĐĂNG MẠNH(Kỷ niệm 70 năm ngày mất nhà văn Vũ Trọng Phụng 1939 - 2009)Trong lĩnh vực văn chương, tác phẩm không hay, không có giá trị nghệ thuật thì chỉ là con số không, chẳng có gì để nói, để bàn. Người viết ra nó, dù cuộc đời có ly kỳ thế nào, người ta cũng chẳng quan tâm.

  • ĐỖ LAI THÚYHòn đất cũng biết nói năng(Nhại ca dao)

  • HOÀNG CẦMĐang những ngày hè oi ả, mệt lử người thì anh ấy mời tôi viết Bạt cho tập thơ sắp muốn in ra. Ai đời viết bạt cho tác phẩm người khác lại phải dành trang giấy đầu tiên để viết về mình? Người ta sẽ bảo ông này kiêu kỳ hay hợm hĩnh chăng? Nhưng cái anh thi sỹ tác giả tập thơ thì lại bảo: Xin ông cứ viết cho, dẫu là bạt tử, bạt mạng, thậm chí có làm bạt vía ai cũng được - Chết, chết! Tôi có thể viết bạt mạng chứ sức mấy mà làm bạt vía ai được.

  • ĐẶNG ANH ĐÀOTrong tác phẩm nghệ thuật, phân biệt thật rạch ròi cái gì là ý thức, sáng suốt, tự giác với cái gì vô ý thức, tự phát, cảm tính không phải là điều đơn giản. Ngay cả những nhà văn lãng mạn như Huygô, nhiều lúc sử dụng nhân vật chính diện như những cái loa phát biểu lý tưởng của mình, thế mà đã có lúc Kessler bịt miệng lại không cho tán tụng nhân vật Côdet và mắng rằng: Huygô anh chả hiểu gì về tác phẩm ấy hết", đồng thời tuyên bố rằng ông còn thích Epônin gấp bội lần "Côdet, cô nàng điệu đàng đã tư sản hóa ấy".

  • ĐỖ ĐỨC HIỂU…Với tôi, Balzac là Tiểu thuyết, và Tiểu thuyết là Balzac, - tiểu thuyết Balzac là "tiểu thuyết tuyệt đối", tức là nó biểu hiện tất cả sức mạnh sáng tạo của ông, tất cả cái "lực" của ý thức và tâm linh, của khoa học và tôn giáo, từ cấu trúc truyện và thời - không gian (chronotope), đến cấu trúc nhân vật, tất cả phối âm, tương ứng với nhau thành một dàn nhạc hoàn chỉnh…

  • HỮU ĐẠTKhông phải ngẫu nhiên, Trần Đăng Khoa lại kết thúc bài viết về Phù Thăng một câu văn rất là trăn trở: "Bất giác... Tôi nắm chặt bàn tay gầy guộc của Phù Thăng, lòng mơ hồ rờn rợn. Chỉ sợ ở một xó xỉnh nào đó, sau lùm cây tối sầm kia, lại bất ngờ cất lên một tiếng gà gáy..." Ta thấy, sau cái vẻ tếu táo bên ngoài kia lắng xuống một cái gì. Đó là điểm gợi lên ở suy nghĩ người đọc.

  • HÀ QUANG MINHTôi không muốn chỉ bàn tới cuốn sách của ông Khoa mà thôi. Tôi chỉ coi đó là một cái cớ để bàn luận về nền văn học nước nhà hiện nay. Là một người yêu văn học, nhiều khi tôi muốn quên đi nhưng vô tình vấn đề nẩy sinh TỪ "CHÂN DUNG VÀ ĐỐI THOẠI" đã trở thành giọt nước cuối cùng làm tràn ly và lôi tuột cái nỗi đau mà tôi muốn phớt lờ ấy. Phải, tôi thấy đau lắm chứ. Bởi lẽ ai có ngờ mảnh đất trong sáng mang tên văn học sao giờ đây lại ô nhiễm đến thế.

  • HOÀNG NGỌC HIẾN(góp phần định nghĩa minh triết)         (tiếp Sông Hương số 248)

  • Việc giải quyết thành công mối quan hệ giữa tính dân tộc và tính hiện đại đã hình thành ra các trường phái âm nhạc như: âm nhạc Nga, Pháp, Mỹ, Trung Hoa . . .

  • Phê bình thi pháp học đã mang đến sức sống mới cho phê bình văn học Việt Nam. Một số nhà nghiên cứu cho rằng thi pháp học là phương pháp minh chứng cho thành quả thay đổi hệ hình nghiên cứu trong phê bình văn học.

  • Hiện nay trên thế giới, quan niệm về Nghệ thuật tạo hình, Nghệ thuật thị giác và Mỹ thuật mang ý nghĩa gần giống nhau. Nó bao gồm: hội họa, đồ họa, kiến trúc, điêu khắc, trang trí ứng dụng, video clip, sắp đặt v.v..Loại hình nghệ thuật này luôn xuất hiện bằng những hình ảnh (image) thu hút mắt nhìn và ngày càng mở rộng quan niệm, phương thức biểu hiện cũng như khai thác chất liệu. Tuy nhiên, để hiểu thế nào là nghệ thuật trong tranh, hoặc vẻ đẹp của một công trình nghệ thuật còn là câu hỏi đặt ra với nhiều người.

  • HÀ VĂN LƯỠNGPuskin không chỉ là nhà thơ Nga vĩ đại, nhà viết kịch có tiếng mà còn là nhà cải cách văn học lớn. Là người “khởi đầu của mọi khởi đầu” (M. Gorki) Puskin bước vào lĩnh vực văn xuôi với tư cách là một người cách tân trong văn học Nga những năm đầu thế kỷ. Những tác phẩm văn xuôi của ông đã đặt cơ sở vững chắc cho văn xuôi hiện thực và sự ra đời của chủ nghĩa hiện thực phê phán Nga, góp phần khẳng định những giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc.

  • ĐẶNG VIỆT BÍCHGần đây trên tuần báo Văn Nghệ đã có bài viết bàn về vấn đề đào tạo "Văn hóa học", nhân dịp Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam ra nghị quyết V về xây dựng một nền văn hóa, văn nghệ tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.

  • PHAN TUẤN ANH “Cuộc nói chuyện của chúng ta đã cho tôi thấy rằng hết thảy những gì liên quan đến bản chất của ngôn ngữ mới ít được nghĩ đến làm sao”                                       (Martin Heidegger)

  • TRẦN ĐÌNH SỬVăn học sáng tác là nhằm để cho người đọc tiếp nhận. Nhưng thực tế là người đọc tiếp nhận rất khác nhau. Lý luận tiếp nhận truyền thống giải thích là do người đọc không sành.

  • NGUYỄN THANH HÙNGVăn học là cuộc sống. Quan niệm như vậy là chẳng cần phải nói gì thêm cho sâu sắc để rồi cứ sống, cứ viết, cứ đọc và xa dần mãi bản thân văn học.

  • LTS: Cuộc tranh luận giữa hai luồng ý kiến về nhân vật lịch sử Nguyễn Hiển Dĩnh, một mệnh quan triều đình Huế có công hay có tội vẫn chưa thuyết phục được nhau.Vấn đề này, Tòa soạn chúng tôi cũng chỉ biết... nhờ ông Khổng Tử "Tri chi vi tri chi, bất tri vi bất tri, thị tri giả" (biết thì nói biết, không biết thì nói không biết, ấy là biết). Vậy nên bài viết sau đây của nhà văn, nhà nghiên cứu lịch sử văn hóa Nguyễn Đắc Xuân, chúng tôi xin đăng nguyên văn, tác giả phải gánh trọn trách nhiệm về độ chính xác, về tính khoa học của văn bản.Mong các nhà nghiên cứu, cùng bạn đọc quan tâm tham gia trao đổi tiếp.

  • NGUYỄN ĐẮC XUÂNNăm 1998, Thành phố Đà Nẵng dự định lấy tên nhà soạn tuồng Nguyễn Hiển Dĩnh đặt cho con đường mới song song với đường 2 tháng 9 và đường Núi Thành. Nhưng sau đó qua một số tin bài của tôi đăng trên báo Lao Động nêu lên những điểm chưa rõ ràng trong tiểu sử của ông Nguyễn Hiển Dĩnh, UBND Thành phố Đà Nẵng thấy có một cái gì chưa ổn trong tiểu sử của Nguyễn Hiển Dĩnh nên đã thống nhất rút tên ông ra khỏi danh sách danh nhân dùng để đặt tên đường phố lần ấy. Như thế mọi việc đã tạm ổn.

  • Vừa qua nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân có viết một loạt bài về ông Nguyễn Hiển Dĩnh - một quan lại triều nguyễn, nhà soạn tuồng nổi tiếng Quảng Nam. Qua thư tịch, anh chứng minh Nguyễn Hiển Dĩnh tuy có đóng góp cho nghệ thuật tuồng cổ nhưng những hành vi tiếp tay cho Pháp đàn áp các phong trào yêu nước ở Quảng Nam quá nặng nề nên không thể tôn xưng Nguyễn Hiển Dĩnh là danh nhân văn hoá của việt Nam như Viện Sân khấu và ngành văn hoá ở Quảng Nam Đà Nẵng đã làm. Qua các bài viết của Nguyễn Đắc Xuân có những vấn đề lâu nay ngành văn hoá lịch sử chưa chú ý đến. nhà báo Bùi Ngọc Quỳnh đã có cuộc đối thoại lý thú với anh về những vấn đề nầy.

  • ĐỖ NGỌC YÊNVào những năm 70 của thế kỷ, ở nhiều nước phương Tây tràn ngập không khí của cuộc khủng hoảng gia đình, làm cho nhiều người rất lo ngại. Một số kẻ cực đoan chủ trương xóa bỏ hình mẫu gia đình truyền thống. Nhưng cái khó đối với họ không phải là việc từ bỏ hình mẫu gia đình cũ - mặc dù trên thực tế việc làm đó không phải dễ - mà vấn đề đâu là hình mẫu gia đình mới.