“Bài thơ của một người yêu nước mình”

08:52 10/02/2009
HỒ THẾ HÀTrần Vàng Sao là nhà thơ trưởng thành trong kháng chiến chống Mỹ. Thơ anh là tiếng nói giàu nhiệt huyết, xuất phát từ đáy lòng, hướng đến mọi người bằng giọng điệu giãi bày, tâm tình, chia sẻ. Anh sáng tác không nhiều, nhưng mỗi tác phẩm của anh để lại dấu ấn thi pháp độc đáo, đặc biệt ở việc xây dựng tứ thơ và kiến trúc bài thơ, ở hình ảnh và sức liên tưởng bất ngờ.

Bài thơ của một người yêu nước mình là điển hình cho phong cách đó của Trần Vàng Sao. Bài thơ đã từng làm xúc động mọi người và tạo cho anh lối đi riêng trong hành trình nghệ thuật chung của nhiều thế hệ nhà thơ từ những năm chiến đấu cho đến hôm nay. Bài thơ dài 155 câu, viết theo lối tự do, được thể hiện theo phương thức điệp từ, điệp cú và khai thác chi tiết, hình ảnh có thật trong kho tình cảm và ấn tượng của chính người thơ nên chân thành và xúc động. Có thể nêu một cách khái quát nét đặc sắc của bài thơ, đó là sự hoà quyện xoắn xuýt cảm xúc trữ tình của nhà thơ với hình tượng Đất nước, được đặt trong liên hệ với mẹ, người thân, người yêu và quê hương nghèo khó cùng khát vọng hoà bình, khát vọng làm người chân chính. Toàn bài thơ là sự hoá giải cho chính nhà thơ và cho mọi người về một tình yêu có sức ám ảnh lớn: Tình yêu Tổ quốc.

Ra đi từ khu vườn đầy tiếng chim ban mai và cảnh vật quê hương với kí ức tuổi thơ nồng ấm, tác giả đã xác lập một cách tự nhiên: “Tôi yêu đất nước này như thế”. Đó là hình ảnh “Gió thổi những bông mía trắng trên sông - Mùi toóc khô còn thơm lúa mùa qua - Bầy chim sẻ đậu trước sân nhà”; đó là hoa cỏ may, là “một câu ca dao buồn có hoa bưởi hoa ngâu” và đặc biệt là hình ảnh người mẹ tảo tần, goá bụa ở tuổi ngoài 50, thương con đến tận cùng xa xót, tận cùng cơ cực “Những buổi trưa buổi tối - Ngồi một mình hay khóc”, “Thương con không cha - Hẩm hiu côi cút”. Và tác giả đã liên hệ với tình yêu rộng lớn: “Tôi yêu đất nước này xót xa”, “Tôi yêu đất nước này cay đắng”.
Mở đầu bài thơ, tác giả đã vực dậy những hình ảnh có sức lay động, khiến người đọc nghĩ đến không phải một phận người mà là một kiếp đời, là những người cần lao chung số phận buồn cùng đất nước bị chiến tranh, chia cắt.
Mẹ thương con nên cách trở sông đò
Hàng gánh nặng phải qua cầu xuống dốc
Đêm nào mẹ cũng khóc
Đêm nào mẹ cũng khấn thần
Mong con khôn lớn cất mặt với đời
Tôi yêu đất nước này khôn nguôi
Tôi yêu mẹ tôi áo rách
Chẳng khi nào nhớ tuổi mình bao nhiêu
Từ tình yêu quê hương tuổi thơ gắn với bao tủi buồn, xa xót, tác giả đã hướng ra đường chân trời của suy tư và khát vọng. Nỗi đau càng lớn bao nhiêu thì khát vọng làm người, khát vọng được ước mơ thành thật càng lớn bấy nhiêu. Mỗi bước đi của người con theo dặm dài sông núi, nhìn lại khu vườn xưa thấy hẹp với biết bao điều chưa cắt nghĩa được đã hình thành một chiều kích khác, chiều kích của sự trưởng thành, của sự ra đi:
Tôi bước đi
Mưa mỗi lúc mỗt to
Sao hôm nay lòng thấy chật
Như buổi sáng mùa đông chưa thấy mặt trời mọc
Con sông dài nằm nhớ những chặng rừng đi qua
Nỗi mệt mỏi, rưng rưng từng con nước
Còn lại đây nỗi lặng im của không gian và thời gian hiện thực:
Chim đậu trên cành chim không hót
Khoảng vắng mùa thu ngủ trên cỏ may
Đến nỗi tác giả phải thốt lên “Tôi yêu đất nước này những buổi sớm mai” nghe có gì như nghẹn ngào, rưng lệ. Và cứ như thế, hành trình của một người yêu nước mình càng gắn chặt với quê hương, xứ sở và người thân không dễ gì xao nhãng, thiêng liêng và bền vững xiết bao:
Tôi yêu đất nước này áo rách
Căn nhà dột phên không ngăn nổi gió
Vẫn yêu nhau trong từng hơi thở
Lòng vẫn thương cây nhớ cội hoài
Thắp đèn đêm ngồi đợi mặt trời mai
Tôi yêu đấy nước này như thế
Như yêu cây cỏ ở trong vườn
Như yêu mẹ tôi chịu khó, chịu thương
Nuôi tôi thành người hôm nay
Mỗi đoạn thơ là mỗi nỗi niềm, tâm trạng. Bài thơ dẫn dắt người đọc đi qua từng không gian - thời gian, từng trạng thái tình cảm và hoài niệm đẹp. Chân thành trong hình ảnh, xúc động trong liên tưởng, da diết trong tình yêu và đẹp trong tư thế và nhận thức của nhân vật trữ tình đã làm cho bài thơ có sức nội cảm mạnh trong người đọc. Tác giả đã đánh thức những tiềm năng sâu thẳm ở chúng ta một điều gì đó đồng nghĩa với tình yêu nguồn cội và sự chia sẻ, hiến dâng:
Tôi yêu đất nước này và tôi yêu em
Thuở tóc kẹp tuổi ngoan học trò
Ao trắng và chùm hoa phượng đỏ
Trong bước chân chim sẻ
Ngồi học bài và gọi nhỏ tên tôi
Để giờ đây:
Khi xa nhà vẫn muốn ngoái lại
Ngó cây cam, cây cải
Thương mẹ già như chuối ba hương
Em chưa buồn
Vì chưa rách áo
Tôi yêu đất nước này rau cháo
Bốn ngàn năm cuốc bẫm cày sâu
Ao đứt nút qua cầu gió bay
Tuổi thơ em hãy giữ cho ngoan
Không ồn ào, to tiếng, bài thơ vẫn trong mạch tâm tình, đồng hiện những ký ức gần và ký ức xa, để triển khai tứ thơ đến chiều sâu của suy tưởng, triết luận. Tình yêu Tổ quốc không có trong mỗi người nếu không xuất phát từ những gì gần gũi, thiêng liêng nhất. Vì vậy mà tác giả đã đẩy liên tưởng lên tầm khái quát để nghĩ suy, tự hào về Đất nước.
Tôi yêu đất nước này lầm than
Mẹ đốt củi trên rừng cha làm cá ngoài biển
Ăn rau rìu rau có rau trai
Nuôi lớn người từ ngày mở đất
Bốn ngàn năm nằm gai nếm mật
Một tấc lòng cũng trứng Âu Cơ
Một tiếng nói cũng đẩy hồn Thánh Gióng.

Đất nước với truyền thống ấy nhất định không thể sống quỳ, không thể cúi đầu làm nô lệ. Tình yêu nước phải đồng nghĩa với sự đấu tranh để giành lại sự thống nhất, độc lập, tự do; để được hạnh phúc, để Nam Bắc một nhà. Từ chân trời của quê hương, của một người phải ra đi đến với chân trời của Tổ quốc, của mọi người, “Những người yêu nước mình” đã gặp nhau trong tình đồng chí, đồng bào cao cả, dù họ chưa quen mặt, biết tên, nhưng “Cùng sống chung trên đất / Cùng nỗi đau chia cắt Bắc Nam / Cùng có chung tên gọi Việt Nam / Mang vết thương chảy máu ngoài tim”. Và cao hơn tất cả là hành động xả thân để tổ quốc này mãi mãi là Tổ quốc của Nhân dân, của một cuộc diễu binh hùng vĩ: “Cùng anh em cất cao tiếng nói / Bản tuyên ngôn mười bốn triệu người đòi độc lập tự do”. Bình dị mà vững chãi, gian khổ mà tin yêu mãnh liệt biết bao, dù trước mắt vẫn còn cảnh “Mẹ bồng con lên non ngồi cầu ái tử”, nhưng “Đất nước hôm nay đã thấm hồn người”. Ái Tử - Vọng Phu - Hồn Người - Non Cao... là những từ ngữ gây ấn tượng mạnh, có tính ẩn dụ cao để thể hiện tận cùng sâu thẳm nỗi đau chia cắt, khát vọng chiến đấu và chiến thắng.

Đến đây, bài thơ chùng xuống trong nỗi nhớ và niềm tin thống nhất ở ngày mai. Khổ kết như sự đúc kết của tình yêu đất nước. Cái đích của sự ra đi đầu bài thơ giờ sắp viên thành với tình yêu rộng lớn hơn nhiều. Đó là tình yêu của những người yêu nước mình chân chính nhất nhưng cũng giản dị, bình tâm nhất.
Đất nước này còn chua xót
Nên trông ngày thống nhất
Cho bên kia không gọi bên này là người miền Nam
Cho bên này không gọi bên kia là người miền Bắc
Lòng vui hôm nay không thấy chật
Tôi yêu đất nước này chân thật
Như yêu căn nhà nhỏ có mẹ của tôi
Như yêu em nụ hôn ngọt trên môi
Và yêu tôi đã biết làm người
Cứ trông đất nước mình thống nhất.
Nét độc đáo nghệ thuật của bài thơ không phải ở vần điệu ngọt ngào mà chính là ở cách đặt vấn đề và lí giải vấn đề một cách xúc động, thuyết phục. Bài thơ cứ như sự dâng trào của cảm xúc và tâm trạng, nhưng là cảm xúc, tâm trạng đã “thấm hồn người” nên rất logic và chặt chẽ. Với sự vững chắc trong nghề thơ và trong tư duy thơ như thế nên bài thơ dài mà không dàn trải, không thừa chữ, thừa ý. Sự lặp lại những hình ảnh mẹ, quê hương, ngôi nhà, dòng sông, trẻ thơ... là một thủ pháp nghệ thuật để chứng minh cho tình yêu đất nước rộng lớn là có cơ sở. Điệp cú “Tôi yêu đất nước này” được tái hiện sau mỗi hoàn cảnh là một độc đáo của Trần Vàng Sao, thể hiện được hành trình tâm hồn, hành trình yêu nước của không chỉ của nhà thơ mà của tất cả con người Việt Nam hôm qua, hôm nay và mai sau. Kết thúc bài thơ mà điệp cú ấy cứ vang lên:
- Tôi yêu đất nước này xót xa
- Tôi yêu đất nước này khôn nguôi
- Tôi yêu đất nước này như thế
- Tôi yêu đất nước này và tôi yêu em
- Tôi yêu đất nước này lầm than
- Tôi yêu đất nước này chân thật
Bài thơ của một người yêu nước mình
đã thành bài thơ của những con người Việt chân chính yêu nước mình. Cảm ơn thi sĩ Trần Vàng Sao đã cho ta một lẽ sống, một cách làm người cao đẹp.
                    H.T.H.

(nguồn: TCSH số 192 - 02 - 2005)

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • ĐINH VĂN TUẤN

    Trong số mấy bài thơ chữ Nôm còn lại của Bà Huyện Thanh Quan, bài thơ “Qua Đèo Ngang” là bài thơ gần đây được tranh luận nhiều nhất về chữ nghĩa, đặc biệt là về từ ngữ “cái gia gia”(1).

  • KHẾ IÊM

    Tựa đề về cái chết của hậu hiện đại không có gì mới vì đã có khá nhiều bài viết bàn về vấn đề này, từ những đầu thập niên 1990. Nhưng bài viết đã phác họa cho chúng ta thấy đời sống văn hóa trong thời đại sau chủ nghĩa hậu hiện đại với sự xuất hiện những phương tiện công nghệ mới. Lạc quan hay bi quan, chúng ta chưa biết, nhưng rõ ràng những hệ tư tưởng cũ đang dần dần bị tàn phai nơi những thế hệ mới.

  • ALAN KIRBY

    LTS: Alan Kirby nói chủ nghĩa hậu hiện đại đã chết và đã được chôn. Tới thế chỗ của nó là một hệ hình mới của thẩm quyền và kiến thức được hình thành dưới áp lực của những công nghệ mới và các lực lượng xã hội đương đại. Tựa đề bài tiểu luận, lần đầu tiên xuất hiện trên tạp chí Philosophy Now (Triết học Bây giờ) ở Anh, số 58, năm 2006, và sau đó được in trong cuốn “Digimodernism: How New Technologies Dismantle the Postmodern and Reconfigure Our Culture”, được Continuum xuất bản vào năm 2009.

  • LÊ QUỐC HIẾU

    Trong các bộ phận của khoa nghiên cứu văn học Việt Nam hiện nay, không thể phủ nhận lý luận, phê bình là lĩnh vực có nhiều thay đổi rõ rệt. Một loạt những công trình nghiên cứu lịch sử lí luận, phê bình văn học “trình làng” trong những năm qua[1], đủ để nhận thấy tham vọng khái quát, đánh giá của các nhà nghiên cứu sau mỗi chặng đường phát triển của văn học.

  • THÁI KIM LAN
    I.
    Bài viết này được mở đầu bằng một trải nghiệm tự thân, từ chỗ đứng của chủ thể thực hành nói ra kinh nghiệm của mình, vì thế có thể gây ấn tượng về tính chủ quan. Sự trách cứ ấy xin nhận lãnh trước, nhưng xin được tạm thời để trong dấu ngoặc.

  • LUÂN NGUYỄN

    Nhất đình sơn vũ luyện hoa khai
                 (Mộ xuân tức sự - Nguyễn Trãi)

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ

    (Trích tham luận tại Hội thảo "Văn học trước yêu cầu đổi mới" tháng 12-1987)

  • BỬU CHỈ

    Đã từ lâu tôi vẫn nghĩ và tin rằng: quê hương của nghệ thuật là Tự Do, và nghệ thuật đích thực phải thoát thai từ những con người sáng tạo có đầy đủ quyền làm người, cùng tinh thần trách nhiệm đối với cộng đồng xã hội của họ; và lớn hơn nữa là đối với con người.

  • LÊ QUANG THÁI

    Năm Quý Tỵ đã trôi qua, Xuân Giáp Ngọ đã về:
    Rắn trườn đã hết năm,/ Ngựa hay đưa Xuân về.(1)

  • ĐỖ LAI THÚY

    Kìa ai chín suối xương không nát
    Ắt hẳn nghìn thu tiếng vẫn còn
                   
    (Nguyễn Khuyến)

  • TRẦN HUYỀN TRÂN

    Có lẽ, Cám dỗ cuối cùng của Chúa là cuốn tiểu thuyết nói về khoái lạc trần tục của Jesus một cách táo bạo nhất?

  • NGUYỄN DƯ

    Hôm ấy bạn bè họp mặt ăn uống. Chuyện nổ như bắp rang. Tôi khoe mình đã từng ba lần đội trời đạp đất trên đỉnh đèo Hải Vân. Một bạn hỏi đèo Hải Vân có gì đặc biệt? Câu hỏi bất ngờ làm tôi cụt hứng. Ừ nhỉ… đèo Hải Vân có gì đặc biệt?

  • PHAN TUẤN ANH

    “Lịch sử như là đem lại ý nghĩa cho cái vô nghĩa”
                                                               (T.Lessing)

  • Ngày nay, nhìn lại chủ trương cách mạng của Phan Châu Trinh cách đây hơn một thế kỷ, một lần nữa chúng ta lại thấy tầm nhìn của một người mang khát vọng Khai dân trí, Chấn dân khí, Hậu dân sinh.

  • NGUYỄN THỊ TỊNH THY

    Sau khi đọc bài trao đổi của Triệu Sơn trên tạp chí Sông Hương số 10/2013 về bài viết của tôi trên tạp chí Sông Hương số 8/2013, tôi xin có mấy ý trả lời như sau:

  • PHAN NGỌC

    Trong quyển "Tìm hiểu phong cách Nguyễn Du trong truyện Kiều", tôi có dùng một số thuật ngữ chuyên môn. Trong phạm vi quyển sách tôi không thể trình bày kỹ cách hiểu của mình, cho nên có sự hiểu lầm. Giờ tôi xin trình bày kỹ hơn khái niệm "thức nhận", cơ sở của tác phẩm, để bạn đọc dễ đánh giá hơn.

  • YẾN THANH

    Trong bài viết này, chúng tôi muốn nhìn nhận những cống hiến của GS.TS Lê Huy Bắc trên lĩnh vực khoa học, đây là những thành tựu mà theo chúng tôi, vừa có tính lan tỏa, lại vừa có tính bền vững. Bởi vì, có thể nhiều học viên, nhà nghiên cứu dù không trực tiếp được nhà khoa học giảng dạy, hướng dẫn, nhưng từ những công trình, bài báo khoa học, vẫn được kế thừa và chịu sự tác động từ người thầy đó. 

  • TRIỆU SƠN

    Bài này nhằm trao đổi với tác giả Nguyễn Thị Tịnh Thy về những bất cập của nghiên cứu, phê bình văn học hiện nay nhân đọc bài “Những bất cập và thái quá trong nghiên cứu văn học hiện nay” của tác giả trên Sông Hương, 294/08-13.

  • PHAN TRỌNG HOÀNG LINH

    Được Bakhtin đề xuất trong công trình nghiên cứu về sáng tác của Frăngxoa Rabơle, thuật ngữ chủ nghĩa hiện thực nghịch dị (grotesque realism) là sự định danh ước lệ cho một kiểu hình tượng đặc thù (hay phương pháp xây dựng hình tượng đặc thù) của nền văn hóa trào tiếu dân gian, kiểu hình tượng nghịch dị.

  • LTS: Phạm Phú Uyên Châu, bút danh Meggie Phạm, sinh năm 1991, hội viên trẻ nhất của Hội Nhà văn Thừa Thiên Huế, tác giả của bộ truyện dài liên hoàn do Nxb. Trẻ ấn hành: Hoàng tử và em (2011, tái bản 2011), Giám đốc và em (2011, tái bản 2012), Chàng và em (2012, tái bản 2012), Người xa lạ và em (2012) và Tôi và em (đang in).