'Đấu trường giác đấu La Mã' giữa lòng cố đô Huế

15:11 09/12/2013

Cho dù đã trải qua nhiều biến động, thăng trầm của lịch sử, đấu trường Hổ quyền vẫn tọa lạc sừng sững, phảng phất chất uy nghi, và là một kiến trúc vô cùng quan trọng trong quần thể di tích đất cố đô Huế. 

Cho dù đã trải qua nhiều biến động, thăng trầm của lịch sử, đấu trường Hổ quyền vẫn tọa lạc sừng sững, phảng phất chất uy nghi, và là một kiến trúc vô cùng quan trọng trong quần thể di tích đất cố đô Huế.

“Đấu trường giác đấu La Mã”

Sau các “sự cố” hy hữu trong những trận tử chiến voi – hổ, triều đình nhà Nguyễn đã nghĩ đến phương án xây dựng một trường đấu nằm biệt lập, kiên cố và an toàn hơn. Cũng chính nhờ quyết định “táo bạo” đó mà ở xứ Huế bây giờ vẫn còn tồn tại một đấu trường giác đấu quy mô, hoành tráng “hệt như” đấu trường Coluseum thời La Mã cổ đại (hiện thuộc thôn Trường Đá, làng Nguyệt Biều, phường Thủy Biều, TP. Huế (tỉnh Thừa Thiên – Huế). Để đảm bảo an toàn cho người xem lẫn người bảo vệ cuộc giao đấu, năm Canh Dần (1830), vua Minh Mạng ra chiếu cho xây một đấu trường kiên cố, đặt tên là Hổ quyền. Vua cho khắc rõ một dòng chữ Hán ngay trên đấu trường: “Minh Mạng thập nhất niên/Chính nguyệt cát nhật tạo” (Tức làm vào một ngày tốt lành thuộc tháng Giêng năm thứ 11 đời vua Minh Mạng).

Trường đấu Hổ quyền tọa lạc tại khu vực đồi Long Thọ và thành Lồi, gần với Điện Voi Ré (tên gọi dân gian của Miếu Long Châu). Đây là vùng đất của người Chăm Pa xưa. Theo nhận xét, đánh giá của nhiều nhà nghiên cứu, vua Minh Mạng xây dựng đấu trường trên mảnh đất một thời là thành quách của người Chiêm Thành vì muốn khẳng định mình là người chiến thắng; mặt khác muốn “dằn mặt” những kẻ có âm mưu chống đối triều đình. Dư địa chí Thừa Thiên-Huế chép: Hổ quyền được cấu trúc khá đơn giản nhưng rất chắc chắn, được xây bằng gạch vồ, đá thanh và vôi vữa; là một đấu trường lộ thiên hình vành khăn. Được kết cấu bởi hai vòng tường thành hình tròn đồng tâm.

Theo các tài liệu ghi chép lại vòng tường trong cao 5,9m, vòng tường ngoài cao 4,75m. Thành ngoài nghiêng một góc khoảng 15 độ tạo đế vững chắc kiểu chân đê. Cả hai vòng tường cộng với dải đất ở giữa tạo thành một bề dày 4m ở đỉnh và 5m ở chân  thành, đường kính lòng chảo 44m, chu vi tường ngoài 145m. Khán đài cho vua được thiết kế ở mặt Bắc của đấu trường, tương đối cao và thoáng. Bên phải đấu trường là lối lên xuống của vua cùng hoàng thân quốc thích. Bên trái là lối của các quan chức và binh lính. Đối diện tầm nhìn của vua là năm chuồng nhốt hổ, với hệ thống cửa gỗ đóng mở bằng cách kéo dây từ phía trên. Bên cạnh là một cửa vòm lớn để dẫn voi vào trường đấu.

Hổ quyền được xây dựng kiên cố, chắc chắn nên mỗi lần có trận giao chiến voi – hổ thì dân chúng đua nhau kéo đến xem. Vua quan triều Nguyễn cũng an tâm thân chinh ngự lãm. Theo lời kể của các bậc cao niên, ngày hội Hổ quyền, cả kinh thành tưng bừng. Trên sông Hương, thuyền rồng của vua quan ngược dòng từ Nghinh Lương Đình lên thôn Trường Đá. Đường bộ, dân chúng cũng tấp nập men theo con đường bờ Nam sông Hương tìm lên Thủy Biều.

Trong ngày thi đấu, dân chúng và hương chức quanh vùng đặt hương án, lễ vật trên đoạn đường vua đi. Đấu trường được trang trí bởi nghi trượng, cờ, lọng. Tiếng trống giục liên hồi vang xa cả một vùng. Một đội quân mặc áo đỏ, nón sơn, cầm khí giới nghiêm trang, cung kính đứng hai bên đường từ đấu trường ra đến bến sông để đón vua quan. Đúng Ngọ, vua cập bến Long Thọ; vua lên kiệu, đi trước là Ngự lâm quân, thị vệ cầm cờ, cầm gươm chỉn chu, tiếp theo là đội nhạc cung đình.

Là trường đấu xem voi giết hổ, vì vậy theo thông lệ, trước mỗi trận đấu voi chiến được tạo điều kiện tốt nhất để dành chiến thắng. Tuy nhiên, khi Hổ quyền hoàn thành, các trận đấu sinh tử giữa voi và hổ càng được tạo cơ hội để trở nên... tàn khốc hơn. Hổ lúc này được cho ăn đầy đủ nhằm giữ được nguyên sức khỏe, móng vuốt, răng nanh cũng được giữ nguyên, nhằm tạo ra sự “công bằng” cho trận quyết chiến.

Cái kết của “chiến thần” và “chúa tể rừng xanh”

Theo nhà Huế học Phan Thuận An, dưới triều vua Minh Mạng đã chọn ra một con voi đầu đàn để chỉ huy binh đoàn voi chiến của nhà Nguyễn. Bầy voi chiến tinh nhuệ lại có sự “lãnh đạo” của voi đầu đàn; cộng thêm bầy hổ “khát máu” được chăm sóc kỹ lưỡng đã tạo nên thời vàng son cho Hổ quyền. Theo lời những bậc cao niên ở thôn Trường Đá kể lại, trong những trận quyết chiến voi hổ, các quan võ là những người đặc biệt hào hứng nhất. Bởi khi hổ và voi  quyết đấu, chúng sẽ sử dụng những miếng thế thủ và tấn công đối phương của riêng mình. Các quan võ quan sát, nghiên cứu rồi theo từng miếng đánh ấy mà chuyển hóa, cách tân thành những miếng võ lợi hại. Hơn thế nữa là giúp quan võ và binh sỹ rèn luyện tính can trường, dũng cảm, chiến đấu đến hơi thở cuối cùng.

Trong một lần tuyển chọn voi chỉ huy của đội tượng binh hoàng gia, vua Minh Mạng đã cho bầy voi 12 con giao đấu với ba con hổ. Vừa vào trận, bầy hổ khát máu đã tiến về phía đàn voi giương vuốt sắt rồi chồm lên tấn công tới tấp. Bầy voi nghe sự “chỉ huy” của thủ lĩnh đầu đàn nên nhanh chóng bày trận, xếp thành một vòng tròn, đứng vây hổ vào giữa trận. Thấy bất lợi về ta, ba con hổ đồng loạt nhắm về phía con voi đầu đàn mà nhe răng chực cắn, chực tát. Nhanh như cắt, voi đầu đàn dùng ngà húc thẳng vào bụng chúng. Những voi chiến còn lại cũng xông lên hỗ trợ. Cuộc huyết chiến diễn ra trong “biển máu”. Phòng thủ, giằng co, chống trả suốt một ngày trận chiến mới phân thắng bại. Ba con hổ bị hạ gục hoàn toàn, song đội tượng binh chỉ còn 4 con, voi đầu đàn bị thương nặng.

Nhà Huế học Phan Thuận An cho biết, sau trận quyết chiến, vua Minh Mạng đã quyết định chọn voi đầu đàn làm chỉ huy binh đoàn voi chiến. Sử cũ còn chép lại việc vua Minh Mạng đích thân đến rửa vết thương cho voi sau những trận chiến. Ông dặn dò binh lính phải chăm sóc voi chu đáo, để sau này đánh quân Xiêm La bảo vệ bờ cõi. Trong các đời vua chúa nhà Nguyễn thì vua Minh Mạng là người được ví “yêu voi như con”.

Trong lịch sử, có một trận đấu voi-hổ được người ta nhắc đi nhắc lại nhiều lần và thuật lại rất kỹ. Voi xuất hiện ở cửa vòm, hổ được thả chạy ra từ chuồng nhốt hổ (không hề bị cột dây “bảo hiểm”). Vừa thấy bóng voi, vua ngự trên khán đài khen con voi cái này can đảm. Vua vừa dứt lời, hổ đã nhảy phóc lên trán voi, chực nhe nanh cắn xé. Voi đau hét lên một tiếng xé trời, rồi chạy thật nhanh làm hổ mất thăng bằng rớt xuống. Chưa chịu dừng lại, hổ vẫn tiếp tục bu bám lên trán voi, bấu vào mắt, vào tai. Bị tấn công dồn dập, voi dồn sức mạnh ngàn cân của mình áp sát hổ vào tường và ghì chặt cho đến khi hổ không còn cử động được nữa mới thả xuống. Rồi voi dùng chân đạp chết con mãnh thú. Đó là trận huyết đấu cuối cùng tại Hổ quyền, năm 1904 dưới thời vua Thành Thái.

Sau này, người ta không còn “cơ hội” để xem voi giết hổ bởi vận nước khó khăn. Điều kiện kinh tế, xã hội không cho phép tổ chức các trận đấu như thế nữa. Nhìn một cách khách quan, đấu trường Hổ quyền trong một chừng mực nào đó đã thể hiện được sự tiến bộ trong quá trình nhận thức của các vua chúa lúc bấy giờ. Một quá trình nhận thức mà xét trên góc độ xã hội là ngày một văn minh và nhân đạo hơn. Từ chỗ dùng đồng loại của mình làm “vật bảo vệ” cho một trò tiêu khiển nguy hiểm, dần dần vua chúa đã biết xây dựng nên một đấu trường kiên cố, đảm bảo an toàn tính mạng cho người xem lẫn người bảo vệ trận đấu.

Lớp bụi thời gian đã và đang làm cho đấu trường Hổ quyền oai linh một thời nhuốm màu rêu phong và dần rơi vào quên lãng. Bởi giá trị của nó không phải nằm ở sự chạm khắc tinh xảo hay những hoa văn đậm chất nghệ thuật như các địa danh trong quần thể di tích cố đô Huế. Hổ quyền đơn giản là một bức tường thành để khán giả ung dung "ngự" lên khán đài, nhìn xuống khu lòng chảo mà thưởng thức một trận voi – hổ tranh tài vô cùng ác liệt, hấp dẫn. Không ồn ào, khoa trương nhưng giá trị lịch sử của nó thì không ai chối cãi được. Hổ quyền là một di tích đặc biệt của Việt Nam và của cả thế giới.

Phục dựng đấu trường bằng công nghệ 3D

Ngày 31/5/2010, Tổng cục Di sản văn hóa Hàn Quốc và viện Khoa học công nghệ chất lượng cao Hàn Quốc đã chuyển giao cho Trung tâm Bảo tồn di tích cố đô Huế sản phẩm phim 3D “phục dựng di tích Hổ quyền bằng công nghệ kỹ thuật số”. Bộ phim đã sử dụng công nghệ 3D để phục dựng lại các hình ảnh của đấu trường Hổ quyền - nơi tranh hùng giữa voi và hổ - được xây dựng dưới thời nhà Nguyễn.

 

Theo Bạch Hưng (Nguoiduatin)
 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • Trong không khí sôi nổi của các hoạt động chào mừng lễ kỷ niệm ngày giải phóng Thừa Thiên Huế (26/3/1975-26/3/2009), Trung tâm BTDT CĐ Huế sẽ tổ chức đêm thơ Nguyễn Khoa Điềm tại bến Nghinh Lương Đình.

  • Sáng ngày 22-3, nhận lời mời của tạp chí Văn hóa Quân sự (cơ quan thường trú Miền Trung-Tây Nguyên) và  Hội Nhà văn Đà Nẵng, nhóm anh em văn nghệ sỹ Huế trên 20 người gồm các nhà văn, nhà nghiên cứu, nhà thơ, nhạc sỹ và nghệ sỹ trình diễn...  đã đến tham dự chương trình thơ, nhạc, triển lãm ảnh với chủ đề: “Hội ngộ Hải Vân Quan” tại đỉnh đèo Hải Vân.

  • Nhân kỷ niệm 140 năm ngày danh nhân Đặng Huy Trứ đưa nhiếp ảnh vào Việt Nam và khai sinh hiệu ảnh Cảm Hiếu đường, hiệu ảnh đầu tiên ở Việt Nam, kỷ niệm 56 năm ngày ngày truyền thống Nhiếp ảnh Việt Nam; Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật- Hội Nhiếp ảnh Thừa Thiên Huế và Phòng Văn hoá Thông tin thành phố Huế tổ chức khai mạc 2 phòng triển lãm ảnh "Gia đình Việt Nam xưa" và triển lãm các  "Tác phẩm được giải thưởng qua thời kỳ trong suốt 30 năm qua".

  • Tập tranh Sông Hương của họa sĩ Gérald Gorridge, giảng viên Đại học Hình ảnh Angouleme, được ra mắt ngày 9/3 tại trụ sở Hội người Việt Nam tại Pháp ở Paris.

  • NGUYỄN KHÁC PHÊ (Đọc “Nửa vòng đất lạ buồn vui xứ người” của Bảo Cường)  Tôi tin là Bảo Cường không tự ái khi bị (hay “được”) gọi là “nghệ sĩ hát rong”.  Vì không dễ có được danh hiệu này. Người nghệ sĩ không hề bị trói buộc, chẳng hề ra giá “cát-sê”, gần gũi với nhiều tầng lớp công chúng ở mọi phương trời mới  được tặng danh hiệu dân dã mà đáng yêu  đó.

  • Sáng ngày 17 - 2 - 2009, Tạp chí Sông Hương phối hợp cùng Hội Nhà văn TT. Huế tổ chức buổi ra mắt tập truyện ngắn đầu tay của tác giả Nguyễn Đặng Mừng: Bóng chiều hôm (Nxb Hội Nhà văn, 2009). Đến dự có đông đảo các nhà văn, dịch giả, những người có uy tín trong hoạt động văn học nghệ thuật như: Trần Thùy Mai, Nguyễn Khắc Thạch, Tô Nhuận Vỹ, Bửu Ý, Thái Kim Lan, Đặng Tiến…

  • “…Mới ngày nào của buổi sáng hội ngộ mùa thu 2008, các bạn trẻ cùng nhau thảo luận về sân chơi cho văn chương trẻ, nhận ra sự bơ vơ mà như một lời tự tình rất thực đã so sánh: “Con nai vàng ngơ ngác của nhà thơ Lưu Trọng Lư còn có thảm lá vàng để dẫm lên, còn những bước chân tập tễnh vào chốn văn chương của những cây bút trẻ đã không biết dẫm lên đâu trong mênh mông cuộc sống xô bồ hiện tại”.

  • Có thể nói như vậy về cuộc “ra quân” cùng lúc của 14 họa sĩ trẻ tại cơ sở “Nghệ thuật không gian mới” ở thôn Lại Thế (xã Phú Thượng, Phú Vang) chiều ngày 21/12/2008.

  • Sáng sớm ngày 7-12-2008, giữa rừng thông bên núi Ngũ Phong, phường An Tây TP Huế đã diễn ra Đại lễ khánh thành đền thờ vua Trần Nhân Tông (TNT) - nhân kỷ niệm 750 năm ngày sinh vua TNT 7/12/1258-7/12/2008 và 700 năm ngày mất 1308-2008 do Sở Văn hóa - Thể thao và du lịch tỉnh Thừa Thiên Huế long trọng tổ chức trong khu Trung tâm văn hóa Huyền Trân.

  • Ngày 22/11 vừa qua, tại xóm 3 thôn Lại Thế huyện Phú Vang đã long trọng tổ chức Lễ khai mạc triển lãm tranh “Nơi mới” của các nghệ sĩ: Phan Hải Bằng, Nguyễn Thiện Đức, cặp song sinh Lê Đức Hải - Lê Ngọc Thanh, Võ Xuân Huy, Hoàng Đăng Nhuận, Trương Thiện.

  • Tạp chí Sông Hương phối hợp với Học bỗng Vang Vang đã trao 65 suất quà cho con em bà con lao động nghèo, cụ thể là các cháu từ 5-10 tuổi con em các nghiệp đoàn xích lô xe thồ ở thành phố Huế.

  • Các cháu đều rất đáng thương tâm, chịu nhiều thiệt thòi vì tật nguyền, nhiều cháu gặp phải bệnh chân voi, bại não nằm liệt người một chỗ, thiểu năng trí tuệ không tự ăn uống sinh hoạt được, câm điếc bẩm sinh. Các cháu đều ở trong những ngôi nhà nghèo, bố mẹ là công nhân lao động lương không đủ trang trải và không có điều kiện chăm sóc các cháu ... 

  • Đề án nhằm xây dựng thành phố Festival Huế mang tầm quốc gia và quốc tế với đặc trưng của Việt Nam; xây dựng Huế trở thành thành phố du lịch trong mối gắn kết hài hòa với thành phố Festival.

  • Rồi thì năm 2000, năm chuyển giao giữa hai thế kỷ và hai thiên niên kỷ cũng đã qua, để cho thế kỷ XXI chính thức khai mạc vào xuân Tân Tỵ này.

  • Ban chỉ đạo vận động hiến máu tình nguyện tỉnh Thừa Thiên Huế vừa tuyên dương gia đình chị Lê Thị Thêu, người dân tộc Katu, trong phong trào hiến máu nhân đạo. Có tới 9 thành viên trong gia đình chị cùng tham gia hiến máu.

  • Do ảnh hưởng của hai đợt rét đậm, rét hại kéo dài gần hai tháng qua, hàng chục ha cây thanh trà ở xã Thủy Biều, TP Huế không thể ra hoa.