"Lại đây!"

15:32 21/08/2015

Qua đi, với những hoa tàn tạ
Hoa trong hồn ta, ai hái được bao giờ
                                     Victor Hugo*

Tôi nghe nói trong đạo Phật, hành động vị tha đẹp nhất, quý nhất, hiệu quả nhất là “pháp thí”. Nó quý hơn cả áo cơm, vàng bạc, vì nó nói vào lòng người, xoay chuyển tim người. Con người, mỏng manh và cô độc thế, một khi tâm ý biến đổi, có thể có sức mạnh thôi sơn. Thậm chí đến mức nhà Phật gọi là “bất thoái chuyển”, tức từ nay tâm kiên cố, tiếp tục đi lên, hướng thượng. không quay lùi trở lại. Trong thời buổi đầy rẫy những từ “suy thoái”, “xuống cấp” trên nhiều lĩnh vực, pháp thí, theo nghĩa trên, cần thiết bao nhiêu!

Nhưng, trước hết là thái độ. Socrates ngồi xuống vĩa hè, ngay giữa chợ đời để mời gọi đối thoại. Đức Phật nhẹ nhàng buông hai tiếng “Lại đây!” với mọi người, không phân biệt sang hèn, để an ủi và ôn tồn “khai thị” về những lẽ được mất, thành bại, tử sinh: “Nếu tâm bị nhơ bẩn, mọi hành động, lời nói, ý nghĩ đều bẩn. Người như thế sẽ bị dục vọng lôi kéo đi và sẽ chết trong đau khổ giống như rường, kèo, đòn tay của mái nhà lợp không kỹ, thiếu chăm sóc, sẽ bị thối rữa vì thấm nước mưa”… “Hãy sống thế nào để khi trút hơi thở cuối cùng, mình nghe như có ai gọi thầm bên tai: “Lại đây!” và mình đi theo…” (Thư gửi đại gia).

Tôi chợt nhớ hai câu Nguyễn Du:

Ai đến đó dưới trên ngồi lại

Của làm duyên chớ ngại bao nhiêu!

Thưa, “của làm duyên” lần này không ít đâu! 22 câu chuyện chia thành bốn mục: Khai thị, Thiền Ý, Tử sinh và Một mảnh tình riêng, tập hợp dưới nhan đề chung từ câu chuyện mở đầu “Sợi tơ nhện”, tiếp nối và mở rộng chân trời của hai tập gần đây nhất Chuyện Trò (2012) và Nhật ký Sen trắng (2014) không chỉ cho thấy bút lực “kinh nhân” của GS Cao Huy Thuần, mà còn hơn thế: những mẫu “pháp thoại” ngày càng uyển chuyển, mặn mà, sâu thẳm.

Tôi định đọc vội để còn viết đôi lời “phi lộ” cho kịp ngày ra mắt sách, đáp lại tình cảm ưu ái của tác giả và thịnh tình của nhà xuất bản. Nhưng, sao lạ, cứ đọc xong vài chuyện, tôi phải dừng lại khá lâu, có lúc muốn đọc lại. Một cảm giác thật hiếm gặp: vừa bồi hồi, xao xuyến, vừa thấy lòng mình trong trẻo, mát rượi, không bợn một chút bứt rứt, hoang mang. Do văn tài đặc sắc của tác giả chăng? Nói thế là thừa! Hay phải chăng “lời thêu” đã thật sự thoát ra từ “lòng gấm”? Vâng, chắc thế rồi! 22 câu chuyện gồm nhiều hương vị và cung bậc khác nhau. Có chuyện ly kỳ, hồi hộp không kém truyện phim Rashomon của Nhật Bản trong Quán hú vía, có chuyện hài hước, bất ngờ như Đứa con, kỳ dị mà cảm động như Cái vòng khuyên, và còn thơ mộng nữa, như trong nhiều chuyện khác. Cao huynh đắp thêm da thịt đầy đặn cho bộ xương khái niệm, thêm máu huyết, không, đúng hơn, thêm khí huyết cho tấm thân kia hồng hào, tươi nhuận, đầy sinh lực.

Người đọc yêu văn chương, triết học Tây phương cũng sẽ có dịp gặp lại rất nhiều tên tuổi quen thuộc, nhưng được giới thiệu thật nhẹ nhàng, được soi rọi dưới ánh sáng mới mẻ, tinh tế. Này là văn chương: La Fontaine, Victor Hugo, Baudelaire, Ronsard, Verlaine, Tourgueniev…, này là triết lý: Socrates, Cicéron, Epicur, Epitecte, Descartes, Kant, Sartre… Mỗi người đọc hẳn sẽ có cảm nhận của riêng mình. Phần tôi, được hưởng nhiều “hương vị” khó quên, xin kể một vài.

Trước hết, là chuyện tưởng như rất cũ xưa: “khởi tâm”. Một con nhện - phạm nhiều tội ác nên phải làm nhện! - khởi tâm thiện, bao nhiêu sợi tơ trong bụng như muôn ngàn cạm bẫy hiểm độc trước đây đều trở thành bấy nhiêu những sợi tơ rung động của linh cảm, muốn cứu vớt tên tướng cướp Kandata - từng tha chết cho con nhện - đang bị đày đọa ở địa ngục. Một sợi tơ thả xuống địa ngục để đền ơn. Kandata  hăm hở nắm lấy, leo lên. Khi sức đã kiệt, “Kandata ngừng leo, nhìn xuống phía dưới. Dưới xa, thật xa, mờ mờ trong bóng tối của địa ngục, ba bốn tội nhân cũng đang bám vào sợi dây để leo lên. Hoảng hốt, Kandata la lớn: “Buông ra! Dây này là của tôi! Đừng làm đứt dây! Buông ra!”. Nói chưa dứt lời, sợi dây đứt phụt, phát ra một tiếng chát chúa như dây đàn bị đứt. Rụng như một trái cây thối, Kandata rơi xuống một vũng bùn lầy lội máu” (Sợi tơ nhện). Thế đấy, “chỉ một khởi tâm, anh ta suýt thoát đọa kiếp. Chỉ một khởi tâm, kiếp kiếp đọa đầy”. Chuyện này dẫn đến chuyện kia. Do “khởi tâm” ác độc, ngu dại của con người tàn phá thiên nhiên mà “hồ điệp cốc” tuyệt trần với hàng triệu cánh bướm vào mùa thiên di ở Michoanan, Mexico không còn đập cánh, rụng xuống như những chiếc lá khô! Du khách thất vọng. Nhưng, tất nhiên, không phải giận con bướm. Mà “giận con người, đã làm thương tổn thiên nhiên… Con người cuồng bạo trước mầu nhiệm. Con người không biết đọc lời kinh chép trên cánh bướm” (Bướm bay). Có thể thêm: con người không biết đọc lời kinh chép trên muôn nghìn lá cây xà cừ, sấu, sữa… Một “khởi tâm” gây khổ cho bướm, cho cây, cho dân và bây giờ cho cả chính mình!

Thứ hai là chuyện tập ngồi thiền của tác giả, mà “tâm” thì mải miết chạy theo bóng hình một… người phụ nữ!

Nàng Rosa! Tên của một đóa hồng. Nhưng là đóa hồng nhung thứ thiệt: Rosa Luxemburg, nữ chiến sĩ cách mạng sắt thép, đã hy sinh trong ngục tù phát xít. Sao có chuyện lạ? Thưa, vì Rosa đang viết những giòng lửa cháy trong tù: “Thế giới này quá đẹp dù bao nhiêu thảm khốc đã xảy ra, và còn đẹp hơn biết bao nếu không có những kẻ hèn nhát và hèn hạ” (Nhớ Rosa). Rosa, trái tim chiến sĩ với tâm hồn thi sĩ và… tu sĩ, khi trong tù lắng theo tiếng đàn vịt trời đang tung cánh: “Tiếng kêu của chúng vang lên inh ỏi, chứa đầy hoài cảm và trời đất bao la. Một cảm giác lạ lùng đã khiến chúng ta đứng sửng, lặng yên, như thể đứng dưới mê hồn của một huyền nhiệm”. Ngồi thiền thì phải đuổi mọi thứ ra khỏi đầu, nhưng “suốt buổi tập, tôi chỉ biết nhớ Rosa”, thú chứ! Thiền rất… người, vì giữa hiện tại bi đát vẫn nở một nụ hồng, vẫn nghe được tiếng reo của cát, vì “cuộc đời, thưa anh, là vậy: như một tấm vải dệt bằng buồn thảm, vô lý, nhưng trên đó ta vẫn có tự do thêu những nét đỏ xanh, thêu một nụ cười” (Hoa đào năm ngoái).

Thứ ba, là chuyện “linh hồn”, tưởng cũ hơn… trái đất! “Chết không phải là hết. Vẫn còn! Nhưng không phải là linh hồn, lại càng không phải là linh hồn bất diệt, cứ nguyên si như thế mà nhập vào người nọ người kia. Vậy thứ còn lại là gì?” (Thác là thể phách). Hỏi lại lần nữa”: “Cái đó là cái gì? Linh hồn chăng? Không phải! Cái đó rất là vật chất, cụ thể đó là lời đã nói, đó là hành động đã làm, đó là tư tưởng đã phát biểu. Lời đó, hành động đó, tư tưởng đó dẫn chúng ta đi, bỏ cái thân xác này để mượn một thân xác khác. Thân xác là khách, lời nói, hành động, tư tưởng mới là chủ”. Nói theo nhà Phật, đó là “nghiệp”. Tôi xin bổ sung thêm, nói theo Hegel, “con người là kết quả hành động của con người”. “Nói theo Nguyễn Du, “cái đó là tinh anh. Không phải linh hồn. Linh hồn thì không thấy. Nhưng, tinh anh thì có khi thấy được, nó nằm nơi các chồng sách vây quanh thân xác của Bergotte [nhân vật của Proust, trong “Đi tìm thời gian đã mất”], rực rỡ ánh vàng”.

Hay nói theo những cảm xúc đang trào dâng hôm nay trong lòng dân tộc, đó là những cái chết bất tử của những người đã hy sinh, không phân biệt, “không chia Tổ Quốc làm hai”. “Cái chết đó dạy cho người sống một bài học sống: hãy sống với Tổ Quốc như chúng tôi đã chết cho Tổ Quốc, hãy đứng dậy như chúng tôi đã nằm xuống, khi nằm xuống, cái đầu của chúng tôi không chia Tổ Quốc ra làm hai (…) Hỡi các chiến sĩ đã chết! Hãy linh thiêng xóa tan biên giới trong đầu người sống! Chỉ còn biên giới hải đảo đất nước mà thôi để bảo vệ, không phân biệt 1974, 1979 hay 1988. Đất nước ấy còn thì người chết cũng sống. Đất nước ấy mất thì người sống cũng thành chết” (Tưởng niệm).

Đó cũng là “biện chứng” của tự do và xác tín, phóng dật và trách nhiệm, và của tình yêu: tình yêu là hành động, là cho, là biết cho, và biết nhận: “Biết đâu, tôi đã nhận hoa của ai từ kiếp trước… Biết đâu tôi sẽ trao lại hoa ấy cho một người nào đó trong kiếp sau, biết đâu…” (Thác là thể phách).

“Hoa trong hồn ta, ai hái được bao giờ?” (Victor Hugo), và kỳ cùng, “nói chuyện triết lý là để học chết và học sống mà thôi!” (Nói chuyện triết lý).

Vâng, thưa Cao huynh, xin bái lĩnh! 

29.03.2015
Nguồn: Bùi Văn Nam Sơn - VHNA

 


* Dẫn trong bài “Thác là thể phách” trong tập này.

 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • MINH QUANG                Trời tròn lưng bánh tét                Đất vuông lòng bánh chưng                Dân nghèo thương ngày Tết                Gói đất trời rưng rưng...

  • NGUYỄN THỊ THÁITôi không đi trong mưa gió để mưu sinh, để mà kể chuyện. Ngày ngày tôi ngồi bên chiếc máy may, may bao chiếc áo cho người. Tôi chưa hề may, mà cũng không biết cách may một chiếc Yêng như thế nào.

  • Nhà thơ Hải Bằng tên thật là Vĩnh Tôn, sinh ngày 3 tháng 2 năm 1930, quê ở thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế. Ông mất ngày 7 tháng 7 năm 1998.

  • NGUYỄN VĂN HOACuốn sách: "Nhớ Phùng Quán" của Nhà xuất bản Trẻ, do Ngô Minh sưu tầm, tuyển chọn và biên soạn với nhiều tác giả phát hành vào quý IV năm 2003. Cuốn sách có 526 trang khổ 13x19cm. Bìa cứng, in 1000 cuốn. Rất nhiều ảnh đẹp của Nguyễn Đình Toán - nhà nhiếp ảnh chân dung nổi tiếng của Việt nam. Đơn vị liên doanh là Công ty Văn hoá Phương Nam.

  • ĐÀ LINHĐể có trận quyết chiến chiến lược Điện Biên Phủ, trước đó quân đội Nhân dân Việt Nam đã có những trận đánh để đời mở ra những khả năng to lớn về thế và lực cho chúng ta. Trong đó Trận chiến trên đường (thuộc địa) số 4 - biên giới Cao Bắc Lạng 1950 là một trận chiến như vậy.

  • HOÀNG VĂN HÂNLướt qua 30 bài thơ của Ngô Đức Tiến trong “Giọng Nghệ”, hãy dừng lại ở những bài đề tài tình bạn. Với đặc điểm nhất quán, bạn của anh luôn gắn liền với những hoài niệm, với những địa chỉ cụ thể, về một khoảng thời gian xác định. Người bạn ấy hiện lên khi anh “nghĩ về trường” “Thăm trường cũ”, hoặc là lúc nhớ quá phải “Gửi bạn Trường Dùng” “ Nhớ bạn Thanh Hoá”. Bạn của anh gắn với tên sông, tên núi: sông Bùng, sông Rộ, Lạt, Truông Dong, Đồng Tháp.

  • FAN ANHTrên thế gian này tồn tại biết bao nhiêu báu vật, hoặc những huyền thoại về báu vật, thì cũng gần như hiện hữu bấy nhiêu nỗi đau và bi kịch của con người vốn dành cả cuộc đời để kiếm tìm, bảo vệ, chiếm đoạt hay đơn giản hơn, đặt niềm tin vào những báu vật ấy. Nhẫn thạch (Syngué sabour - Pierre de patience) của Atiq Rahimi trước tiên là một báu vật trong đời sống văn học đương đại thế giới, với giải thưởng Goncourt năm 2008, sau đó là một câu chuyện về một huyền thoại báu vật của những người theo thánh Allad.

  • KIM QUYÊNSinh năm 1953 tại Thừa Thiên (Huế), tốt nghiệp Đại học Sư phạm Huế năm 1976, sau đó về dạy học ở Khánh Hoà (Nha Trang) hơn 10 năm. Từ năm 1988 đến nay, nhà thơ xứ Huế này lại lưu lạc ở thành phố Hồ Chí Minh, tiếp tục làm thơ và viết báo. Chị là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, hiện nay là biên tập viên Tạp chí Văn hoá Nghệ thuật của Sở Thông tin Văn hoá thành phố Hồ Chí Minh.

  • VÕ QUANG YẾN Tôi yêu tiếng nước tôi                Từ khi mới ra đời làm người                                                Phạm Duy

  • PHẠM NGUYÊN TƯỜNGKhao khát, đinh ninh một vẻ đẹp trường tồn giữa "cuộc sống có nhiều hư ảo", Vú Đá, phải chăng đó chính là điều mà kẻ lãng du trắng tóc Nhất Lâm muốn gửi gắm qua tập thơ mới nhất của mình? Bài thơ nhỏ, nằm nép ở bìa sau, tưởng chỉ đùa chơi nhưng thực sự mang một thông điệp sâu xa: bất kỳ một khoảnh khắc tuyệt cảm nào của đời sống cũng có thể tan biến nếu mỗi người trong chúng ta không kịp nắm bắt và gìn giữ, để rồi "mai sau mang tiếng dại khờ", không biết sống. Cũng chính từ nhận thức đó, Nhất Lâm luôn là một người đi nhiều, viết nhiều và cảm nghiệm liên tục qua từng vùng đất, từng trang viết. Câu chữ của ông, vì thế, bao giờ cũng là những chuyển động nhiệt thành nhất của đời sống và của chính bản thân ông.

  • MINH ĐỨC TRIỀU TÂM ẢNHTôi nghe rằng,Rạch ròi, đa biện, phân minh, khúc chiết... là ngôn ngữ khôn ngoan của lý trí nhị nguyên.Chan hoà, đa tình, niềm nỗi... là ngôn ngữ ướt át của trái tim mẫn cảm.Cô liêu, thuỷ mặc, bàng bạc mù sương, lấp ló trăng sao... là ngôn ngữ của non xanh tiểu ẩn.Quán trọ, chân cầu, khách trạm, phong trần lịch trải... là ngôn ngữ của lãng tử giang hồ.Điềm đạm, nhân văn, trung chính... là ngôn ngữ của đạo gia, hiền sĩ.

  • MAI VĂN HOANTập I hồi ký “Âm vang thời chưa xa” của nhà thơ Xuân Hoàng ra mắt bạn đọc vào năm 1995. Đã bao năm trôi qua “Âm vang thời chưa xa” vẫn còn âm vang trong tâm hồn tôi. Với tôi, anh Xuân Hoàng là người bạn vong niên. Tôi là một trong những người được anh trao đổi, trò chuyện, đọc cho nghe những chương anh tâm đắc khi anh đang viết tập hồi ký để đời này.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ giới thiệuNhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh nhà phê bình Hoài Thanh (1909-2009)Chúng ta từng biết cố đô “Huế Đẹp và Thơ” một thời là nơi hội tụ các văn nhân, trong đó có những tên tuổi kiệt xuất của làng “Thơ Mới” Việt Nam như Xuân Diệu, Huy Cận, Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên…; nhưng nhà phê bình Hoài Thanh lại đến với Huế trong một hoàn cảnh đặc biệt và có thể nói là rất tình cờ.

  • LÊ TRỌNG SÂM giới thiệuBà sinh ra và lớn lên ở Painpol và Saint-Malo, một đô thị cổ vùng Bretagne, miền đông bắc nước Pháp. Học trung cấp và tốt nghiệp cử nhân văn chương ở thành phố Nice, vùng xanh da trời miền nam nước Pháp. Là hội viên Hội nhà văn Pháp từ năm 1982, nay bà đã trở thành một trong số ít nhà văn Châu Âu đã tiếp thu và thâm nhập sâu sắc vào rất nhiều khía cạnh của văn hoá Việt Nam.

  • MAI VĂN HOAN giới thiệu Vĩnh Nguyên tên thật là Nguyễn Quang Vinh. Anh sinh năm 1942 (tuổi Nhâm Ngọ) ở Vĩnh Tuy, huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình. Bố anh từng tu nghiệp ở Huế, ông vừa làm thầy trụ trì ở chùa vừa bốc thuốc chữa bệnh cho người nghèo. Thuở thiếu thời anh đã ảnh hưởng cái tính ngay thẳng và trung thực của ông cụ. Anh lại cầm tinh con ngựa nên suốt đời rong ruổi và “thẳng như ruột ngựa”.

  • LGT: Vài năm lại đây, sau độ lùi thời gian hơn 30 năm, giới nghiên cứu văn học cả nước đang xem xét, nhận thức, và đánh giá lại nền “Văn học miền Nam” (1954 - 1975) dưới chế độ cũ, như một bộ phận khăng khít của văn học Việt Nam nửa sau thế kỷ XX với các mặt hạn chế và thành tựu của nó về nghệ thuật và tính nhân bản. Văn học của một giai đoạn, một thời kỳ nếu có giá trị thẩm mỹ nhân văn nhất định sẽ tồn tại lâu hơn bối cảnh xã hội và thời đại mà nó phản ánh, gắn bó, sản sinh. Trên tinh thần đó, chúng tôi trân trọng giới thiệu bài viết vừa có tính chất hồi ức, vừa có tính chất nghiên cứu, một dạng của thể loại bút ký, hoặc tản văn về văn học của tác giả Nguyễn Đức Tùng, được gửi về từ Canada. Bài viết  dưới đây đậm chất chủ quan trong cảm nghiệm văn chương; nó phô bày cảm nghĩ, trải nghiệm, hồi ức của người viết, nhưng chính những điều đó làm nên sự thu hút của các trang viết và cả một quá khứ văn học như sống động dưới sự thể hiện của chính người trong cuộc. Những nhận định, liên hệ, so sánh, đánh giá trong bài viết này phản ánh lăng kính rất riêng của tác giả, dưới một góc nhìn tinh tế, cởi mở, mang tính đối thoại của anh. Đăng tải bài viết này chúng tôi mong muốn góp phần đa dạng hóa, đa chiều hóa các cách tiếp cận về văn học miền Nam. Rất mong nhận được các ý kiến phản hồi của bạn đọc. TCSH

  • MAI VĂN HOAN giới thiệuNăm 55 tuổi, Hồng Nhu từng nhiều đêm trăn trở, băn khoăn lựa chọn việc trở về quê hay ở lại thành phố Vinh - nơi anh gắn bó trọn hai mươi lăm năm với bao kỷ niệm vui buồn. Và cuối cùng anh đã quyết tâm trở về dù đã lường hết mọi khó khăn đang chờ phía trước. Nếu không có cái quyết định táo bạo đó, anh vẫn là nhà văn của những thiên truyện ngắn Thuyền đi trong mưa ngâu, Gió thổi chéo mặt hồ... từng được nhiều người mến mộ nhưng có lẽ sẽ không có một nhà văn đầm phá, một nhà thơ “ngẫu hứng” như bây giờ.

  • LÊ HỒNG SÂMTìm trong nỗi nhớ là câu chuyện của một thiếu phụ ba mươi tám tuổi, nhìn lại hai mươi năm đời mình, bắt đầu từ một ngày hè những năm tám mươi thế kỷ trước, rời sân bay Nội Bài để sang Matxcơva du học, cho đến một chiều đông đầu thế kỷ này, cũng tại sân bay ấy, sau mấy tuần về thăm quê hương, cô cùng các con trở lại Pháp, nơi gia đình nhỏ của mình định cư.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ     (Đọc “Cạn chén tình” - Tuyển tập truyện ngắn Mường Mán, NXB Trẻ, 2003)Với gần 40 năm cầm bút, với hơn hai chục tác phẩm văn xuôi, thơ và kịch bản phim, nhà văn Mường Mán là một tên tuổi đã quen thuộc với bạn đọc, nhất là bạn đọc trẻ. Có lẽ vì ấn tượng của một loạt truyện dài mà ngay từ tên sách (Lá tương tư, Một chút mưa thơm, Bâng khuâng như bướm, Tuần trăng mê hoặc, Khóc nữa đi sớm mai v...v...) khiến nhiều người gọi ông là nhà văn của tuổi học trò, trên trang sách của ông chỉ là những “Mùa thu tóc rối, Chiều vàng hoa cúc...”.

  • NGUYỄN VĂN HOATranh luận Văn Nghệ thế kỷ 20, do Nhà xuất bản lao động ấn hành. Nó có 2 tập: tập 1 có 1045 trang và tập 2 có 1195 trang, tổng cộng 2 tập có 2240 trang khổ 14,4 x 20,5cm. bìa cứng, bìa trang trí bằng tên các tờ báo, tạp chí có tư liệu tuyển trong bộ sách này.